Trong câu chuyện về Charles Darwin, được bác Richard Dawkins tường thuật trong đoạn video này, ông ta từng quan sát thấy một loại ký sinh trùng ong vò vẽ (parasitic wasp), chích trứng của mình vào cơ thể của những côn trùng khác, để chúng nó khi nảy nở, có thể ăn thịt "chủ nhà". Các ấu trùng còn chích cho các bộ phận trong hệ thần kinh của chủ nhà bị tê liệt, để họ không thể phản kháng được trong lúc cơ thể của mình đang bị ăn tươi, nuốt sống.
Xem đoạn video này, thấy có tiếng vang nào của sự quan sát ở trên không nhỉ.
Khi người ta cho mình chẳng khác nào côn trùng, họ có thể hành xử giống như côn trùng.
Bài viết dành cho dịp khác về đối cực của đề tài: Hệ quả của "chân lý tuyệt đối".
Đọc tác phẩm "Giêsu là Ai?" của bác Trần Chung Ngọc quả là một cực hình--toàn là lời lẽ khinh miệt, chẳng có chút nào tinh thần đối thoại liên tôn từ một tín đồ Phật giáo. Đây là bài học cho tôi khi đối thoại với tín đồ Chứng Nhân Giê-hô-va.
Trởi lại đề, chương 1 của bác Ngọc thấy có chép:
theo Matthew 1:1-17 thì các thế hệ tiếp nối giòng họ Giê-su từ vua David như sau:
Chúng ta nên để ý rằng, trong 2 danh sách trên kể về dòng dõi của Giê-su, chỉ có ba tên giống nhau (chữ đậm), còn thì hoàn toàn khác biệt, và Matthew kê ra 27 thế hệ trong khi Luke kê ra 42 thế hệ. Nếu những tên thế hệ đều giống nhau thì chúng ta có thể cho rằng Matthew bỏ sót, liệt kê cách quãng những thế hệ tiếp nối từ David đến Giê-su. Nhưng rõ ràng là không phải vậy.
Đúng ra, "2 danh sách có ba tên giống nhau" mới thật là vấn đề, bởi hai quyển Thánh Kinh trên đây ghi chép hai dòng dõi khác nhau: Ma-thi-ơ ghi chép dòng dõi từ vua Solomon, con trai của vua Đa-vít , trong khi Lu-ca ghi dòng dõi của Nathan, một người con trai khác của vua Đa-vít.
Vậy tại sao, hai dòng dõi lại hội tụ lại nơi Thánh Giuse? Theo Tự Điển Bách Khoa Công Giáo, có một cách giải thích:
Estha cưới Mathan, con cháu của vua Đa- vít bởi Solomon, và trở thành mẹ [ghẻ] của Jacob; sau khi Mathan chết đi, bà ta lấy ông chồng thứ hai, Mathat, cũng là con cháu vua Đa-vít nhưng thuộc dòng dõi Nathan, và do đó trở thành mẹ [ghẻ] của Heli. Jacob và Heli do đó trở thành anh em trong giới luật. Heli cưới vợ, nhưng chết không có con; góa phụ của ông ta, theo luật của người Levi bấy giờ, trở thành vợ của Jacob, và hạ sanh Giuse. Giuse là con ruột của Jacob nhưng cũng là con của Heli theo pháp luật, và do đó kết hợp hai dòng dõi của nhà vua Đa-vít.
Trở lại vấn đề, nếu là hai dòng dõi khách nhau, vậy tại sao hai danh sách lại trùng hợp ở hai tên Zorobabel (Zerubbabel) và Salathiel (Shealtiel)? Bài viết của Tự Điển Bách Khoa Công Giáo cũng giải thích, có thể là do trùng tên chứ không phải là cùng một nhân vật:
Nếu Salathiel và Zorobabel lúc bấy giờ đã làm rạng danh trong dòng họ Solomon, thì không mấy gì lạ lùng nếu dòng họ của Nathan lấy hai tên ấy để đặt cho hậu duệ của mình. Ở đây, người đọc cần lưu ý rằng, chúng ta chỉ đề nghị một lối giải thích khả dĩ cho vấn đề; khi có sự khả dĩ, thì đối phương của chúng ta không có lý gì để cáo buộc rằng gia phả của Matthew và của Luke mâu thuẫn nhau.
Lại thấy bác Trần Chung Ngọc chép:
Một vài nhà thần học Ki Tô đã đưa ra một cách giải thích có tính cách ngụy biện nhưng không được thông minh cho lắm. Đó là gia phả của Giê-su theo Luke là theo dòng họ mẹ, nghĩa là Maria, chứ không phải là dòng họ bố là Joseph. Nghiên cứu về cổ sử và truyền thống Do Thái, các học giả đã bác bỏ lý luận ngụy biện này. Thật vậy, cả Matthew và Luke đều ghi Giê-su thuộc dòng dõi cha là Joseph chứ không ghi Giê-su thuộc dòng họ mẹ là Maria.
Có lẽ là ở điểm này bác Ngọc nói đúng: Matthew và Luke đều ghi chép dòng dõi của Thánh Giuse. Bởi trang Tự Điển Bách Khoa Công Giáo cũng có nói: theo truyền thống, các giáo phụ không có ai cho rằng gia phả theo Luke là thuộc dòng dõi của Đức Mẹ Maria ("It may be safely said that patristic tradition does not regard St. Luke's list as representing the genealogy of the Blessed Virgin.").
Vậy câu hỏi kế tiếp: Tại sao lại ghi chép dòng dõi của Thánh Giuse trong khi Giuse không phải là cha ruột của Chúa Giêsu?
Trong bộ Tổng Luận Thần Học, Phần 3, Nghi vấn 29, Mục 1, liên quan đến đề tài tại sao Chúa Giêsu lại chọn cho mình một người mẹ đồng trinh đã đính hôn, thấy Thánh Thomas Aquinas chép:
[Ấy] là điều hợp tình hợp lý vì 3 nguyên nhân: vì lợi ích riêng của Ngài, vì lợi ích cho Mẹ Ngài, và vì lợi ích cho chúng ta.
Trong lợi ích cho Chúa Giêsu, có 4 lý do. Thứ nhất: Kẻo lời đồn thị phi của những kẻ nghi ngờ, mà cho rằng Ngài là con hoang. Vì lẽ này, Thánh Ambrose đã nói về Luke 1:26-27: "Làm sao chúng ta có thể trách Herod hay dân Do Thái nếu họ có ý bách hại một kẻ đã được sanh ra bởi tội thông dâm?" Thứ hai, để theo tập tục, hầu cho gia phả của Ngài được vạch theo dòng dõi của [người cha dưới thế gian]. Do đó, Thánh Ambrose đã nói về Luke 3:23: "Đấng đã đến trong thế gian, theo tập tục của thế gian, cần phải được danh chánh, ngôn thuận. Với mục đích này, tục lệ đòi hỏi người đàn ông [trong hai vợ chồng] phải là người đứng ra làm thủ tục ghi danh, bởi đàn ông là đại diện cho gia đình trong nghị viện và tòa án. Tập tục trong Thánh Kinh cũng cho thấy dòng họ của người đàn ông luôn được dùng để liệt kê gia phả". Thứ ba, vì an toàn cho đứa bé sơ sinh, kẻo quỷ thần lại mưu đồ ám hại Ngài. Vì lẽ này, Thánh Ignatius đã nói rằng Đức Bà phải được đính hôn, "hầu cho phương cách hạ sanh của Ngài được che giấu khỏi tai mắt của quỷ thần". Thứ tư, hầu cho Ngài được che chở bởi cha nuôi là Thánh Giuse, người được gọi là "cha" của Ngài, bởi là người đã nuôi dưỡng Ngài dưới thế gian.
Việc ấy phù hợp cho Đức Mẹ Maria bởi 3 lý do. Thứ nhất, bởi thế Đức Bà mới được thoát khỏi sự trừng phạt của người thế gian, đó là "kẻo Bà bị ném đá cho đến chết, bởi người Do Thái, vì tội thông dâm", theo lời Thánh Jerome. Thứ hai, để bảo toàn cho danh tiết của Đức Bà; Thánh Ambrose nói về Luke 1:26-27: "Bà phải được đính hôn, ngõ hầu tránh khỏi sự tổn thương bởi tai tiếng là kẻ bị xúc phạm tiết hạnh, khi bào thai trong bụng Bà lớn dần". Thứ ba, như Thánh Jerome nói, để hầu cho Thánh Giuse có thể chăm sóc cho bà.
Việc ấy cũng gây lợi ích cho chúng ta bởi 5 lý do.
Thứ nhất, do vậy mà Thánh Giuse có thể làm chứng cho chúng ta về sự hạ sanh của Chúa Giêsu bởi một người nữ đồng trinh. Thánh Ambrose nói: "Chồng bà là một chứng nhân đáng tin cậy về sự trong sạch của bà, vì bởi lẽ ra ông phải oán trách bà do sự ô nhục ấy, và trả thù vì bà làm tổn thanh danh ông, nếu thật sự ông không chấp nhận mầu nhiệm."
Thứ hai, bởi thế lời lẽ của Đức Bà trở nên đáng tin cậy hơn khi bà khẳng định sự trong sạch của mình. Thánh Ambrose nói: "Niềm tin nơi lời nói của Đức Bà Maria được thêm sức mạnh, động cơ của lừa dối được dẹp tan. Nếu bà không được đính hôn khi mang thai, bà sẽ bị buộc phải che giấu bằng lời dối. Khi đã được đính hôn, bà không còn lý do để nói dối, trong khi sự mang thai là một tặng thưởng của hôn nhân và nó chúc phúc cho sự kết hợp vợ chồng. Hai lý do trên đây, góp phần tạo sức mạnh cho đức tin của chúng ta.
Thứ ba, ngõ hầu cho mọi sự bào chữa có thể được loại bỏ đối với những trinh nữ khác, cho dù muốn thận trọng, lại rơi vào sự ô nhục. Thánh Ambrose nói: "Thật là điều không thích hợp nếu các trinh nữ để mình bị vấp phải tai tiếng xấu, và rồi lại viện cớ rằng chính Đức Mẹ Chúa Trời đã từng bị áp bức bởi ô danh".
Thứ tư, bởi vì sự kiện này mà Giáo Hội công giáo lấy làm gương, đó là một nữ đồng trinh, nhưng lại được đính hôn với người đàn ông (Chúa Kitô), như Thánh Augustine nói (trong tác phẩm De sancta virginitate, quyển xii).
Thứ năm, bởi Đức Mẹ Chúa Trời được đính hôn và lại là nữ đồng trinh, cả hai lối sống trinh tiết và kết hôn được tôn vinh qua con người Bà, ngược với những kẻ dị giáo nào đã từng gièm pha lối này hay lối nọ.
Cuộc đời của tôi không phải là vì tôi. Tôi cần phải lắng nghe xem Ông Trời có sắp đặt gì cho tôi.
Tôi không phải là người nắm quyền. Quyền lực là một ảo giác. Mọi nỗ lực cố để nắm quyền, hầu lôi kéo kết quả theo ý mình, là một trò buồn cười, nếu không muốn nói là tai hại. Tôi cần phải biết phó thác cho Thiên Chúa.
Tôi không mấy quan trọng. Có rất nhiều người khác quan trọng hơn tôi nhiều, và có thể thời điểm nào đó sẽ đòi hỏi tôi phải dâng hiến mạng sống của mình để cho người nào khác được sống.
Tôi sẽ chết. Tôi nên chuẩn bị mọi thứ hầu cho xứng đáng mà gặp Đấng Tạo Hóa. "Chuẩn bị" này bao gồm sự lo trọn bổn phận của đời này để được hưởng phúc đời sau. Nghĩa là với tư cách là một người "chăn vườn", tôi đã làm gì để góp phần xây dựng cho con người, Trái Đất, vũ trụ, là ruộng vườn và cây trái của của Đấng Tạo Hóa, ngày một xanh tươi hơn?
"I also came to understand that the purpose of prayer was not to change God’s mind, but to change my heart."
(Tôi dần dần hiểu được rằng mục đích của việc cầu nguyện không phải là để thay đổi ý định của Chúa, mà là để thay đổi tấm lòng tôi.)
Đọc mấy lời giới thiệu này thôi đã đủ thu hút tôi tìm xem "mùa 2" của chương trình Nothing More Beautiful (Không gì đẹp hơn) bởi Tổng Giáo Phận Edmonton, được phát hình trên đài Salt+Light TV. Cập nhật 25-11-2009 15:02: xem (và nghe) lời chứng của cô Lydia Cristini ở đây.
"Cầu nguyện không phải để thay đổi ý của Chúa, nhưng để thay đổi tấm lòng tôi." Câu này thật tuyệt vời. Vậy, tôi đọc kinh không phải để Chúa nghe, nhưng để chính tôi nghe, để những lời kinh ấy cảm hóa, và tác động đến tâm tư, lời nói, và việc làm của tôi. Tôi cần phải trở lại với thói quen đọc kinh mỗi sáng như khi còn ở Nhật Bản. Lúc đó do ở chung với mấy cha con của bác Nguyễn Thời Thí (một gia đình cực kỳ ngoan đạo), nên mỗi sáng bị đánh thức sớm 6h30, bị lôi đầu lên nhà nguyện của Cha George Cloutier để đọc kinh, rồi 7h30 bị kéo cổ tới nhà dòng của Sơ Muraoka để giúp lễ cho Cha George. Giờ đây, nhìn lại, tôi cảm thấy phúc đức vì đã được hưởng những cái "bị" ấy làm nền tảng cho đức tin.
Năm ngoái, xem bài giảng của Đức TGM Richard Smith của Edmonton, tôi lưu ý tới điểm này (thời điểm ~ 25:00-30:00): có một quan niệm, rằng trong mổi người chúng ta hiện hữu hai quyền lực ngang hàng và đối lập với nhau--một chánh, một tà. Trong truyền thông đại chúng, ta nhận thấy quan niệm này được biểu hiện qua hình ảnh một thiên thần ngồi bên vai phải, và một quỷ thần ngồi bên vai trái của ta. Đây là một quan niệm sai lầm. Trích lời TGM Smith:
Vâng, có một quyền lực tà ác đang hoành hành trong thế thới, và nguồn gốc của nó là một sự huyền bí, nhưng chúng ta có thể vượt qua nó, và đừng để nó làm động cơ khiến ta tuyệt vọng.
Nguồn gốc của nó là một sự huyền bí? Lời Đức Cha Tổng khiêm nhường thật. Người công giáo ta thừa biết nguồn gốc nó phát xuất từ Sa Tăng, và Sa Tăng dù sao cũng chỉ là một "tạo vật". "Tạo vật" không thể nào thắng nổi Đấng đã tạo nên nó. Bởi thế ĐTC Benedictô XVI mới thốt ra câu: "không gì đẹp hơn được tìm biết Chúa Kitô". Tôi đang đọc tác phẩm "Niềm Vui Khi Được Biết Chúa Cứu Thế" (The Joy of Knowing Christ) của Ngài, như để tìm lại đức tin của chính mình.
Xem đài truyền hình Salt+Light, trực tuyến:
Lịch trình:
Jesus Christ: Word of God Made Flesh
Catechist: Most Rev. Richard Smith, Archbishop of Edmonton
Witness: Lydia Cristini, teacher
Broadcast: November 7th at 9:00 pm ET, encore presentation Tuesday, November 10th at 8:00 pm ET
Jesus Christ: The Way, the Truth and the Life
Catechist: Most Rev. Thomas Collins, Archbishop of Toronto
Witness: Mother Agnes Mary Donovan, SV
Broadcast: December 19th at 9:00 pm ET, encore presentation Tuesday, December 22nd at 8:00 pm ET
Jesus Christ: Lamb of God and Bread of Life
Catechist: Most Rev. Gary Gordon, Bishop of Whitehorse
Witness: Sister Annata Brockman, SC
Broadcast mid-February 2010
Jesus Christ: Crucified and Risen Lord
Catechist: Most Rev. J. Michael Miller, CSB, Archbishop of Vancouver
Witness: George Weigel, author
Broadcast late April 2010
Jesus Christ: Revelation of the Trinity
Catechist: Cardinal Daniel DiNardo, Archbishop of Galveston, Houston
Witness: Carl Anderson, Supreme Knight, Knights of Columbus
Broadcast early June 2010
Cha Giuse Trần Việt Hùng, của Bronx, vừa có bài viết về phong trào Canh Tân Đặc Sủng. Trích đoạn:
Chúng ta đừng gán ghép cho Chúa Thánh Thần mọi thứ kẻo bị xúc phạm. Chúng ta đừng cuồng tín. Đừng bị ảo giác chi phối. Niềm tin của chúng ta cần đặt trên nền tảng vững chắc nơi Thánh Kinh và Thánh Truyền. Hãy sống đạo trưởng thành, đừng ủy mị và mê tín hay cả tin.
...
Chúa Thánh Thần sẽ làm việc bất cứ ở nơi nào. Gió muốn thổi đâu thì thổi. Chúng ta không thể cản ngăn ơn Chúa Thánh Thần.
Còn một vấn đề Cha không nhắc tới: quá sốt sắng, thậm chí đến mức độ nghiện ngập.
Nhờ bác David gợi ý hôm nọ, mấy hôm nay tôi tìm hiểu thêm về phong trào Công Giáo Canh Tân Đặc Sủng (Catholic Charismatic Renewal movement). Theo bài viết trên Wikipedia, phong trào này bắt nguồn từ thập niên 1960 bởi giáo phái Ngũ Tuần (Pentecostals), gọi là Charismatic Renewal (Canh Tân Đặc Sủng, hoặc Canh Tân Thần Ân), và, từ 1967 trở đi, được cộng đồng Công Giáo hưởng ứng. Các chương trình cho phong trào này được gọi là các buổi "Cầu Nguyện Thánh Linh" hoặc "Khóa Thánh Linh" (xem bài viết này trên mạng thanhlinh.net: CHÚNG TÔI DỰ KHÓA THÁNH LINH TẠI NEW ORLEANS). Cộng đồng công giáo ở Austin - Texas cũng có nguyên một web site cho phòng trào này (sao Toronto không có, ta?).
Nói chung, đây là một phong trào lành mạnh, nhằm cho tâm linh và ý chí của con người được hướng về Chúa.
Tuy nhiên, người tu hành có câu nói: "đạo cao 1 thước, ma cao 1 trượng". Tại Toronto, vào năm 1994, đã xãy ra hiện tượng quái đản mà sau này được phổ biến với cái tên Toronto Blessing (Phép lành Toronto), do nhóm nhà thờ (Tin Lành?) tên Toronto Airport Christian Fellowship (TACF) khởi xướng:
Trong bài giới thiệu phong trào Canh Tân Đặc Sủng trên blog Xuân Bích của Đại Chủng Viện Huế, thấy có đề cập tới hiện tượng Toronto Blessing và gọi đó là "làn sóng thứ ba" của phong trào Canh Tân Đặc Sủng. Cần nhấn mạnh, những người khởi xướng "Toronto Blessing" không phải là tín đồ công giáo, nhưng xem chừng, hiện tượng này đã tạo dư luận lớn lúc bấy giờ, đến nỗi cộng đồng Công Giáo cũng phải lên tiếng. Bác Colin Donovan, phó giám đốc của đài truyền hình EWTN, có bài viết rất hay, đã góp phần cho sự nhận định của tôi về vụ này. Tôi đặc biệt để ý đến câu này: "Thánh Gioan tông đồ đã khuyến khích chúng ta nên thử thách những 'thần linh' này (1 John 4)". Thoáng nghe, tưởng chừng như câu này gây mâu thuẫn với câu: "Anh em đừng thử thách ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, như anh em đã thử thách ở Massah" (Đệ Nhị Luật 6:16). Nhưng, với Thiên Chúa không thể có sự mâu thuẫn. Do vậy, tôi buộc phải hiểu rằng: 1 John 4 khuyên đừng vội tin một cách mù quáng mà dễ bị Satan đánh lừa; và ĐNL 6 khuyên rằng khi đã đủ chứng cớ để tin, thì đừng cố chấp, cứng lòng.
Nếu ngày nào đó tôi đi dự các buổi "cầu nguyện thánh linh" do cộng đồng công giáo tổ chức, tôi sẽ đi với mục đích gì khác chứ không phải đi để tìm "dấu lạ". Mục đích gì thì chưa biết. Tôi hay chú ý tới những tác động của Chúa Thánh Thần trong tôi. Chưa thấy có sự thúc giục mạnh mẽ nào lôi cuốn tôi tới phong trào này--có thể câu hỏi đặt vấn đề của bác David là một sự khởi đầu. Hiện thời, tôi có linh cảm với sự tác động này mạnh hơn: hãy đi gặp cha xứ mà xưng tội cho mau!
Recent Comments