ThanhHai
Bóng mặt trời đã về chiều. Trời tây nguyên quan đản thật là đẹp. Nhưng quan cảnh hoàng hôn lúc nào cũng có cái gì đó hơi âu sầu, ảm đạm, khiến cho người ta không khỏi có chút mũi lòng khi liên tưởng đến tuổi đời mình đã về chiều cũng như bóng hoàng hôn này.
Cảnh vật thật êm đềm, không một tiếng người. Chỉ có tiếng của đàn chim se sẻ, chí chít réo gọi nhau, bay lượn trên bầu trời, và dưới đất, tiếng các loài côn trùng cùng hòa nhau như là một dàn nhạc hòa tấu êm dịu của thiên nhiên.
Chung quanh nơi đây hầu như toàn là đồi và núi. Trên đồi có lưa thưa những hàng cây phong. Đằng xa, núi tuyết phủ quanh năm. Dãy tuyết sơn này trãi dày dường như tận chân trời. Chân núi nằm ở dưới một thung lũng. Trong thung lũng có một con đường nhỏ hẹp dẫn lên đồi phong. Đấy là con đường duy nhất ra vào thung lũng này. Từ trên đồi, ở đầu đường đi vào thung lũng có đóng một tấm bảng nhỏ có ghi bốn chữ: Độc Cô Tịnh Cốc. Nét chữ đã bị phai màu, dường như đã được đóng ở đó lâu lắm rồi.
Trong cốc có một căn nhà nhỏ duy nhất, được dựng lên ở ngay dưới chân núi. Ngôi nhà cất bằng gỗ cây, cột bằng cây, nóc bằng cây, và vách cũng bằng cây. Nóc lợp gạch ngói.
Ở trước nhà có dựng một bàn trà nhỏ và ba cái ghế để chung quanh bàn. Ngồi trên một chiếc ghế là một lão già, tóc đã bạc gần hết đầu. Xem lão tuổi cở độ ngoài lục tuần. Lão ngồi nhâm nhi ly trà, mắt đăm chiêu suy nghĩ, không biết nghĩ điều chi.
Một lát sau, có một thiếu nữ từ trong nhà đi ra, mang ấm nước sôi vừa châm thêm vào bình trà của lão, vừa nói:
- Cha à, cha uống thêm trà nha.
Lão gật gù, trả lời cho có lệ,
- Ờ, được rồi con. Xuân nhi, con vào chuẩn bị phòng thí nghiệm dùm cha nhé.
- Dạ, thưa cha.
Cô gái trả lời, rồi quay vào trong. Cô ta hành động và nói chuyện có chút nào đó không được tự nhiên mấy. Cử chỉ của cô gần giống như một người máy rôbô hơn là người thường.
Lão già ấy là Độc Cô Thanh, mấy mươi năm trước đã từng gây chấn động giang hồ với danh hiệu là Độc Cô Quái Khách. Lão đã ở đây suốt mười mấy năm nay rồi. Từ khi rút chân ra khỏi chốn phồn hoa đô thị, lão đã về đây sống một cuộc sống ẫn cư một mình, không vợ, không con, ngày ngày nghiên cứu sở trường của lão là chế biến siêu người máy có đặt tính và biết nói chuyện giống như con người.
Các người thân của lão, người thì đã bỏ lão ra đi, người thì phiêu bạt khắp năm châu bốn biển không còn biết đâu để liên lạc. Tuy là nói vậy, nhưng ở thời đại văn mình này, thế giới nối liền và gắng bó với nhau qua một siêu mạng lưới thông tin khổng lồ mà hầu như nhà nào trên quả địa cầu này cũng là một giao điểm trên mạng ấy, thì muốn tìm nhau thật không phải là điều khó. Chắc họ giờ cũng đã an phận. Còn phần lão, chắc xưa kia đã gây nhiều nghiệp chướng, nên giờ đây phải lãnh phần hỏa báo, buộc phải sống một kiếp cô độc cho tới cuối đời. Biết làm sao hơn. Khi đã ráng hết sức mình rồi, thì chỉ đành thốt lên câu "mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên" thôi.
Hiện giờ, niềm vui duy nhất của lão chỉ còn là những tạo vật giống người nhưng không phải người, do đầu óc sáng tạo của lão cho sanh ra. Lão coi chúng như là con cái của mình, trông nom chúng từng li từng tí. Ngược lại chúng giúp lão làm những chuyện lặt vặt như sửa sang nhà cửa, trồng trọt, nấu nướng, giặt giũ, để cho lão rảnh tay mà dốc toàn tâm trí vào việc nghiên cứu của lão. Một ngày nào đó, khi lão chết đi, lão đã thảo lệnh cho Xuân nhi, có trách nhiệm chôn cất cho lão.
Ngồi trầm ngâm với bình trà trước sân nhà một hồi lâu, chợt lão nhớ ra một điều: đã đến giờ lão phải thử nghiệm cái sáng chế mới của lão. Nghĩ tới đây, lão bèn đứng vậy đi vào nhà.
Trong nhà, lão vận một bộ đồ dạ hành trắng toát, ngang lưng thắt một sợi vải đen. Giày ống đen.
Vận đồ xong, lão đi qua phòng bên cạnh. Đây là phòng thí nghiệm của lão. Trong phòng toàn là máy móc kháp nơi, màn ảnh máy vi tính xếp hàng một dãy, mổi màn ảnh đang hiện lên các biểu đồ khác nhau, dường như chúng đang làm công việc theo dỏi, đo lường cái gì đó. Căn phòng bị ồn lên bởi các âm thanh hoạt động của các máy móc, tất cả đều hoạt động bằng năng lượng mặt trời do máy biến điện của lão thu thập và tích trữ hàng ngày.
Xuân nhi đã chuẩn bị mọi dụng cụ cho lão. Chính giữa phòng có trải một miếng vải, và có một bệ ngồi. Ở một góc của miếng vải có hai mạch dây điện dẫn đến hệ thống các máy móc. Bên cạnh bệ ngồi là một cái nón tựa như cái nón lá mà thời xưa đời ông bà nội của lão người ta thường đội để che nắng. Chỉ có điều, cái nón của lão không phải
làm bằng lá dừa như nón của họ, mà lại làm bằng một thứ kim loại titanium, tuyệt mỏng, nhưng lại tuyệt cứng.
Độc Cô Thanh đi thẳng đến bệ đó, cầm nón lên đội vào đầu xong, bèn ngồi xếp bằng lại trên bệ, tựa như người ngồi thiền. Ngồi vào xong, lão bắt đầu vận công cho khí tụ đan điền một hồi lâu, rồi đưa hai bàn tay đưa lên ngang ngực và cho hai lòng bàn tay xoay vào nhau, trái trên, phải dưới. Mặt lão bắt đầu ửng hồng. Trên đầu, qua cái nón, có chút khói bắt đầu nghi ngút bốc lên.
Lão vận khí đưa lên hai huyệt tàng huyết phía sau hai vành tai, chổ giao chạm với hai mạch điện trong nón. Chợt cái nón bắt đầu phát hào quang đủ màu. Đây là bắt đầu của giai đoạn thứ nhất. Lão đưa hai bàn tay đẫy ra hai bên ngang vai, xong hai tay xoay ngượt chiều đồng hồ thành một vòng thái cực ngay trước mặt, từ hai bàn tay cũng phát ra hào quang, tay xoay tới đâu thì luồng hào quang đi theo tới đấy, xoay được độ bảy vòng rồi thì ngưng.
Tay đã ngưng, nhưng luồng khí phát ra từ bàn tay đã in trong không khí trước mặt lão một vòng thái cực, và vòng này tiếp tục quay. Đây chính là giai đoạn thứ nhì của tuyệt kỹ Càn Khôn Đại La Di do chính lão vừa mới sáng chế ra. Lần đầu tiên thi triễn coi như là để thí nghiệm, đặng thì tốt, không đặng thì có thể lão sẽ toi mạng.
Lại nói, vòng thái cực càng quay càng nhanh, hào quang càng sáng rực, cho tới khi cả ánh sáng đã bao trùm quanh người lão. Càn Khôn Đại La Di đã thi triễn tới giai đoạn thứ ba. Ánh sáng đang bao quanh người lão đột nhiên thu nhỏ lại, và trong tíc tắc đã nhỏ bằng hạt gạo, rồi từ từ biến mất, và đồng thời lão Độc Cô cũng biến đâu mất. Dường như lão đã bị luồng ánh sáng ấy nuốt chững, trả lại sự yên tĩnh cho căn nhà dưới chân núi.
Lão già Độc Cô Thanh đã biến đi đâu? Đi làm gì? Mà tại sao đột ngột lại biến mất? Phải chăng cuộc thí nghiệm của lão đã bất thành và lão đã bị thiệt mạng? Hoặc biết đâu lão là tiên thánh, có khả năng xuất thần nhập hóa chăng?
Recent Comments