Sau một tuần ấm lạ thường (nhiệt độ cao nhất lên tới 19°C) kết thúc Mùa Đông 2010--hôm qua là ngày xuân phân--cuối tuần vừa rồi trời Toronto lạnh trở lại. Thứ Bảy đi dự tiệc sinh nhật của cu J--tụi nhóc được "thả giàn" một đêm, chơi khuya tới hơn 4h00 sáng mới đi ngủ. Đến chiều Chúa Nhật mới về. Tối, Tam Muội chạy xuống thăm.
Tối Thứ Bảy, ngồi "nhâm nhi" chai St. Remy, nghe/xem tụi nhóc hát Karaoke bài Bohenian Rhapsody, lần đầu tiên giật mình với lời nhạc u ám: "I sometimes wish I'd never been born at all" và "nothing really matters to me". Cảm giác nhất thời: khi một người có cảm giác ghê gớm vậy, không những lỗi do gia đình và môi trường, nhưng còn là lỗi do chính bản thân không tự nhận trách nhiệm với cuộc đời mà mình được ban tặng. Xã hội thật sự đang gặp tệ nạn, khi ta được nghe câu "Ông Trời thật sự thương yêu bạn, dù cho bạn có làm điều ghê gớm gì đi nữa", và lập tức cười chua chát đáp rằng "Đó chỉ là một sự giả dối". Vì bởi, nếu Ông Trời thật sự không thương ta, thì tất nhiên "nothing really matters" (mọi thứ đều là vô nghĩa). Chúa Giêsu lo buồn đổ mồ hôi máu trong vườn Gethsemane cũng vì lý do này.
Sáng nay, chở mẫu thân đi khám chuyên khoa mắt. Nghe bà tả rằng mắt bị xốn. Nghe bác sĩ nói bị trầy giác mạc (corneal abrasions).
Gần đây tôi bị thêm "chứng bệnh câm", không tha thiết "nhiều chuyện" nữa. Hy vọng đây là dấu hiệu của giai đoạn trải nghiệm sự "phó thác", hơn là gì gì khác.
Một đoạn từ tập phim hoạt hình Dante's Inferno: An Animated Epic (2010) (Chín tầng Địa Ngục của Dante), dựa trên thiên sử thi Divine Comedy của văn hào người Ý tên Dante Alighieri (1265-1321):
Câu hỏi mà những người đả kích đạo Thiên Chúa thường đặt ra: Tại sao một vì Thiên Chúa từ nhân lại nhẫn tâm trừng phạt con người đến đời đời kiếp kiếp nơi hỏa ngục? Có lẽ đoạn Thánh Kinh dụ ngôn về Người Con Hoang Đàng (The Prodigal Son, Luca 15:11-31) sẽ giúp giải thích phần nào. Chuyện kể về người con thứ hai, xin cha chia gia tài, rồi rời xa quê đi chơi bời tận hưởng. Khi trắng tay, khốn khổ cùng cực, thì mới hiểu được "đạo", bèn quay về xin lỗi cha, xin được nhận làm người làm mướn cho cha để có cơm ăn. Người Cha không những không trách mắng, mà còn ôm choàng lấy con, cho đeo nhẫn kế thừa, cho mang giày trong khi những người làm phải đi chân không, và mở tiệc linh đình ăn mừng người con đã trở về bình an vô sự. Trong dụ ngôn này, Người Cha ấy chính là Chúa, và người con hoang đàng là những ai sống ngược với điều răn rất đơn giản của Ngài, là "mến Chúa, yêu người".
Thử tưởng tượng, nếu người con thứ kia đã không được bình an trở về, mà ngược lại, trong lúc ăn chơi sa đọa, không may anh ta bị thiệt mạng, thì đó có phải do lỗi của người Cha không, hay là do quyền tự do chọn lựa của người con ấy dẫn đến hậu quả chết chóc? Dó là cái chết của xác thịt; Sự đọa đày nơi hỏa ngục là cái chết của linh hồn, dù rằng linh hồn là một thứ bất diệt.
Cha không thiếu sự kiên nhẫn, kiên nhẫn mời gọi, và rồi kiên nhẫn chờ đợi đến khi tôi trở về nhà Cha. Cha không ép buộc tôi phải trở về. Nhưng, đến một lúc nào đó, thời hạn của tôi sẽ chấm dứt.
Tình cờ bắt được, nên tôi ráng thức khuya để xem đài truyền hình Salt-and-Light tái chiếu Thánh Lễ do ĐHY William Nevada (Bộ Trưởng Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin của Vatican) làm chủ tế tại Nhà Thờ Đức Bà ở Ottawa. Lễ vừa mới kết thúc. Trích đoạn từ Bài giảng của ngài:
Ý tưởng về bí tích Công Giáo dạy ta rằng điều phi thường chỉ nằm ở bên ngưỡng cửa của sự tầm thường. Sự khoe khoang tự hào nhất của nhân loại là một trinh nữ vô danh của thành Nazareth. Vị Chúa Tể Càn Khôn nằm trong máng lừa nơi Bethlehem. Sự cứu rỗi của toàn thế giới được thực hiện giữa hai tên ăn trộm. Chúa Phục Sinh đến với ta trong những nguyên tố thấp hèn của bánh mì và rượu nho. Quyền năng tha tội được ủy thác nơi những người vốn đã mắc tội. Đây chính là sự quy mô của bí tích, mà trong đó điều phi thường được hoàn thành bởi phương thức rất tầm thường.
[The Catholic sacramental imagination teaches us what Naaman had to learn, namely that the extraordinary lies just on the other side of the ordinary. The proudest boast of the human race is an unknown virgin of Nazareth. The Sovereign Lord of the universe lies in manger in Bethlehem. The redemption of the whole world is accomplished between two thieves. The Risen Lord comes to us in the humble elements of bread and wine. The divine power to forgive sins is entrusted to sinful men themselves. This is the sacramental economy, in which the most extraordinary things are accomplished in the most ordinary way.]
Chúa không ngừng mời gọi ta đến dự bàn tiệc của Ngài, mặc dầu ta liên tục khước từ. Tôi vốn mơ hồ rằng mình hiện đang mang trên vai hai sứ mạng: 1) chữa mình, 2) chữa người. "người" ở đây mang hàm ý trước tiên là những người thân yêu của tôi. Sứ mạng phi thường thật. Phương thức tầm thường nào có thể giúp tôi đây? [thở dài]
Yêu mến, say mê sự trần tục không có tội; có tội chăng là khi ta say mê chúng ngoài ý niệm về Ông Trời, khi chúng ta dừng lại ở sự hưởng thụ chúng, dừng lại trước khi tấm lòng ta được cảm hóa bởi Đấng đã tạo nên chúng.
[To love God’s creation isn’t sinful; it is sinful only to love them independent of God, stopping before our hearts can be turned toward the Creator.]
và:
Mọi vật đều là phương tiện cho ta tìm hiểu về Ông Trời. Sự tốt lành của chúng làm chứng cho Đấng đã tạo nên chúng. Chúng là phương tiện để cho ta yêu mến Ngài hơn...Ta được [Ông Trời] tạo nên để ngợi khen, sùng bái, và phụng sự [Ngài]. Mọi tạo vật đều phải được sắp đặt cho mục tiêu này, và chúng ta sẽ chẳng ham muốn điều gì khác ngoài những thứ có thể giúp ta đạt đến mục đích ấy.
[All things are a means to know God (Rom 1:20). Their goodness testifies to the goodness of the One who created them. They are a means to love Him more...We were made to praise, reverence, and serve God. All created things must be ordered to this end and we should prefer nothing except insofar as it helps us praise, reverence, and serve as we were created to do.]
Đọc đến đây, tôi nhớ lời bất bình của một người bạn "vô thần" của tôi đã thốt lên mấy năm trước: "Ông Trời ích kỷ thật nhỉ. Tôi đâu có đòi được tạo ra (I didn't ask to be here). Tại sao lại tạo nên tôi, lại bắt tôi phải thờ lạy, bắt tôi phải chịu khổ?"
"Phải chi tôi đừng được sanh ra thì tốt biết mấy"--tốt như thế nào? Tôi có thể hưởng lợi gì, nếu tôi không hiện hữu?
["It would be better for me not to exist" - in what sense "for me"? How should I, if I did not exist, profit by not existing?]
...
Nếu thế gian hiện hữu cốt không phải để ta yêu mến Ông Trời, nhưng để Ông Trời yêu mến ta, thì như vậy là để ngõ hầu cho ta được lợi. Nếu Đấng vốn không thiếu điều gì, tự chọn lựa để cần đến ta, đó là vì chính ta cần đến sự cần kíp đó."
[If the world exists not chiefly that we may love God but that God may love us, yet that very fact, on a deeper level, is so for our sakes. If He who is in Himself can lack nothing chooses to need us, it is because we need to be needed.]
Đâu có ai, khi ăn cơm hay uống nước, lại thốt lên rằng "tại sao lại bắt tôi phải ăn/uống?" Và, bác Lewis cũng từng nói: "Nếu ta không tập ăn thứ thức ăn duy nhất mà vũ trụ này làm ra, thì ta đành phải chịu đói vĩnh viễn thôi".
Khi tiến sĩ Trần Chung Ngọc, trong tác phẩm chống Kitô giáo mang tên "Giêsu là ai?", bàn về đoạn Kinh Thánh Matthew 15:21-28, đã chê bai rằng "tin theo Chúa kể cũng khá mất nhân vị", thì chắc bác ta đã không nhận ra (hoặc không chấp nhận) quan điểm này của C.S. Lewis. Tôi nhìn thấy chính tôi trong người đàn bà xứ Canaan này, không phải vì tôi là người "phi Do Thái", nhưng là vì tôi là kẻ đầy khuyết điểm. Và tôi cầu mong rằng, khi giờ phút thử thách của tôi sẽ đến, tôi sẽ có đủ sự khiêm hạ để thưa với Chúa tôi rằng: "Vâng, lạy Ngài, tôi chấp nhận rằng thức ăn ngon của Ngài là để dành cho các con ngoan của Ngài. Nhưng lũ chó con như tôi cũng cần phải có ăn để được sống. Xin ban cho tôi những mảnh bánh vụn mà các con ngoan của Ngài đã bỏ thừa."
Hôm qua, đọc đi đọc lại Kinh Ăn Năn Tội trong lúc cầu nguyện trước thánh lễ, lần đầu tiên trong đời, tôi chợt lưu ý đến câu này, tạo nên chút nhiễu loạn trong lòng: "Chúa đã dựng nên con, và cho Con Chúa ra đời chịu nạn chịu chết vì con".
Phải hiểu thế nào nhỉ? Rằng Chúa Cha là Đấng đã dựng nên tôi sao, trong khi Thánh Kinh (Gioan 1:3) lại có chép rằng chính Ngôi Lời mới là Đấng tác tạo nên muôn vật hữu hình và vô hình.
À, tôi hiểu rồi. Có thể nào hiểu theo bối cảnh của công nghệ xây dựng địa ốc, cũng như công nghệ phát triển phần mềm máy vi tính? Có lẽ Chúa Cha là thiết kế gia (chief architect), trong khi Chúa Con là vị kỹ sư (engineer) thi hành theo kế hoạch dự án. Và như thế, câu kinh "Chúa đã dựng nên con" không phải là phủ nhận công việc tác tạo của Ngôi Lời, mà là xác nhận sự tiên khởi của việc tác tạo ấy, phát xuất từ vị Kiến Trúc Sư của Sự Sống là Chúa Cha, cùng hành động tác tạo của Chúa Con, hiệp thông với phép lực của Chúa Thánh Thần, là "công cụ" ban sự sống.
Thế là đã bớt nhiễu loạn phần nào. Tuy nhiên, đọc phiên bản Anh ngữ--Act of Contrition--không thấy có câu nào tương ứng với câu "Chúa đã dựng nên con, và cho Con Chúa ra đời chịu nạn chịu chết vì con" trong bản kinh Việt ngữ cả:
O my God, I am heartily sorry for having offended You and I detest all my sins, because I dread the loss of heaven and the pains of hell, but most of all because they offend You, my God, who are all good and deserving of all my love. I firmly resolve, with the help of Your grace, to confess my sins, to do penance and to amend my life. Amen.
(Lạy Chúa con! Con ăn năn vô cùng vì đã xúc phạm đến Chúa, cùng chê ghét mọi tội con. Vì con khiếp sợ sự đớn đau nơi hỏa ngục, và sợ mất sự sống đời đời trên thiên đàng, nhưng trên hết là vì con đã cả lòng phản nghịch lỗi nghĩa cùng Chúa, là Đấng trọn tốt trọn lành vô cùng, thật xứng đáng để cho con kính mến. Nên con dốc lòng chừa cải, và nhờ ơn Chúa, thì con sẽ sốt sắng tuyên xưng tội lỗi mình đã phạm, cùng làm việc đền tội, hầu cải thiện cuộc đời con. Amen.)
Hôm nay là Lễ Tro. Sáng nay trên đường đi làm, lần đầu tiên tôi ghé viếng Thánh Ambrose trên đường Browns Line, rất gần chỗ tôi làm việc. Khi xưa Thánh Ambrose đã từng dẫn đường cho Thánh Âu Tinh ra khỏi chốn sa đọa, thì nay tôi cũng xin ngài soi đường cho tôi đi. Nhà thờ đã hành lễ hồi 8h00 sáng. Khi tôi đến thì thánh đường vắng tênh, chỉ có tôi, Thánh Ambrose, và Chúa. Hương vị trong ngôi thánh đường này làm tôi nhớ đến phòng trọ của tôi hồi thời học Đại Học.
Tối nay nhà thờ Thánh Cecilia của Cha Tập sẽ làm lễ vào 19h15, hy vọng tôi sẽ về kịp để dự.
Kinh ăn năn tội
Lạy Chúa! Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành vô cùng. Chúa đã dựng nên con, và cho Con Chúa ra đời, chịu nạn chịu chết vì con, mà con đã cả lòng phản nghịch lỗi nghĩa cùng Chúa, thì con lo buồn đau đớn, cùng chê ghét mọi tội con trên hết mọi sự. Con dốc lòng chừa cải, và nhờ ơn Chúa, thì con sẽ lánh xa dịp tội, cùng làm việc đền tội cho xứng. Amen.
Ơn Trời đến như một cơn chớp. Đúng là chỉ có nhờ ơn Trời (Hồng ân Thiên Chúa, the grace of God) thì tôi mới có thể biết làm thế nào để "đền tội cho xứng" mà thôi.
Tôi lại nhớ rằng, tôi cầu nguyện không phải để Chúa thay đổi người khác, nhưng là để thay đổi chính bản thân tôi. Tôi cũng cầu nguyện để xin ơn rỗi cho các linh hồn đã quá cố, bởi chính bản thân họ giờ đây không còn làm được việc ấy nữa.
Ngôi Hai giáng trần là vì để cứu chuộc tội tình của chúng tôi, tội tình vốn bắt nguồn nơi tổ tiên loài người từ ngàn xưa, đã thấm ngầm vào xương tủy như một cơn bệnh AIDS, và từ đấy, đã sanh đẻ ra muôn vàn cơn bệnh khác.
Khi xưa, tôi được rửa tội là để được tha tội di truyền từ tổ tiên, vì bởi chỉ có Ông Trời Con mới đủ thẩm quyền tha thứ tội này, mà Ngài cũng đã chẳng tha tội xuông, mà đã phải gánh lấy tội ấy trên vai mình, là việc Ngài đã phải làm để duy trì sự công chính trong Đức Chúa Cha. Nghịch lý lắm thay, khi sự cứu chuộc ấy, một bên là buộc phải là như vậy, đồng thời lại là sự chọn lựa tự do của Ngôi Lời, tự do trong sự vâng phục hoàn toàn đối với Đức Chúa Cha, và trong sự hết mực thương yêu kẻ tội lỗi như tôi, và tổ tiên tôi, là những tạo vật do chính tay Ngôi Lời đã tạo thành.
Tôi được rửa tội cũng để nhờ lời dạy và các bí tích của Chúa mà tôi sẽ lánh xa, và nếu không thể lánh xa thì vẫn có sức kháng cự lại dịp tội, nhờ sức mạnh của Ngôi Lời và của Đức Thánh Linh. Tội tổ tông đã được tha, nhưng tôi đã và đang thất bại trong sự kháng cự. Tôi thất bại chỉ vì tôi chối từ Chúa, bằng cách này hay cách khác. Concupiscence là bản tính, là khuynh hướng, là sự thôi thúc muốn hành động theo sở thích cá nhân. Có lẽ suốt cả kiếp người này, tôi vẫn sẽ còn thất bại, sẽ còn vấp ngã dài dài bởi sự thôi thúc trái ngược ấy. Thế cho nên tôi không chỉ "xin ơn lánh xa dịp tội", mà còn xin mỗi khi sa ngã vì tội, tôi sẽ còn đủ nghị lực và sự khiêm cung để trỗi dậy và tiếp tục đi, cho dù mỗi lần trỗi dậy là mỗi lần chấp nhận lãnh thêm một vết thương trên chặn đường sắp tới. Và với ý niệm này, tôi cảm giác rằng con đường tôi đang đi không phải là con đường sai (mặc dù đôi lúc tôi không khỏi ngờ vực), mà là con đường phải đi. Ở một mức độ nhỏ bé nào đó, có thể nó là "con đường thương khó" mà Chúa đã dành cho tôi.
Hôm nay, người Kitô giáo long trọng mừng Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết.
Tôi nhân dịp này, dọn dẹp nhà cửa, lau chùi tủ thờ, chụp tấm ảnh này để lưu niệm:
Bức tranh này hồi năm nào tôi đã lượm được ngoài ven đường, hồi còn ở nhà phụ thân tôi. Ai đó đã vứt ra bãi rác bên lề đường.
Lm. George Henry Cloutier, OFM, người cha tinh thần của tôi trong những tháng tạm cư ở Nhật Bản.
Miếng vải tang đen, Ngũ Cô tôi may cho, tôi đã đeo để tang cho Bà Nội tôi khi Bà qua đời hồi năm '98.
Hình Ông Nội tôi, do Cửu Thúc tôi minh họa.
Thật ra tôi chưa dọn mình đón Chúa Phục Sinh cho xứng đáng. Sáng Thứ Sáu xem lại bài Via Dolorosa làm một lần nữa rơi lệ. Trưa đến, định đi xưng tội, nhưng vào nhà thờ, thấy thiên hạ sắp hàng dài triền miên, tôi đứng sắp hàng được nửa tiếng thì bỏ cuộc, về chạy lên nhà nhị đệ tôi, sinh họat hai ngài lễ với gia đình nó. Tụi nó "tổ chức" ăn...thịt nướng (độc địa!), nhằm lúc tôi đang kiêng thịt, nên đành nhịn thèm. Tội cho thằng em, phải chạy tìm mua mấy con cá về để nướng cho tôi ăn. Tối đến, lên Yahoo Messenger, gọi về mẫu thân tôi dưới Cần Thơ, cho bà nghe đám con cháu bên đây la hét kara-ôkê.
Hôm nay (Chúa Nhật) đi xem lễ 4 giờ chiều xong, chạy lên viếng phụ thân tôi và để đưa thư, tiện dịp được ăn ké một chầu thịt nướng (bít-tết, sườn non và đùi gà) thật hả hê.
36 Bấy giờ Đức Giê-su đi cùng với các ông đến một thửa đất gọi là Ghết-sê-ma-ni. Người nói với các môn đệ: "Anh em ngồi lại đây, Thầy đến đàng kia cầu nguyện." 37 Rồi Người đưa ông Phê-rô và hai người con ông Dê-bê-đê đi theo. Người bắt đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến. 38 Bấy giờ Người nói với các ông: "Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy." 39 Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện rằng: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha."
Chén ấy không chỉ đơn giản ám chỉ cuộc tử nạn mà Ngài sắp phải chịu, mà là tội lỗi của thế gian. Nỗi đau to tát nhất của Chúa Giêsu là mặc dù Ngài đang đích thân tiến hành công cuộc cứu độ, vẫn sẽ có nhiều linh hồn bị mất mát bởi do sự lựa chọn của chính họ. Đó là chén đắng mà Ngài đã xin Chúa Cha cất đi, để khỏi phải bị mất đi biết bao nhiêu sinh linh mà Ngài hằng yêu dấu. (Sưu tầm: Palm Sunday 09)
Sắp đến ngày tưởng niệm cuộc tử nạn của Chúa. Tâm hồn tôi có gì đó bất an. Phải chăng tôi bất an vì cảm nhận cực hình Chúa phải gánh chịu cho tôi, hay là tôi bất an bởi tội lỗi của chính mình chưa được hòa giải?
Hãy tự hãm mình hơn, hãy quét dọn tâm linh: 1) cầu nguyện với Chúa Cha trong sự kín đáo, 2) đừng để người đời thấy mình ăn chay, 3) giữ bí mật những việc làm từ thiện.
"ăn chay" không những trong việc ăn uống, nhưng còn là kiêng cữ trong lời nói, và việc làm.
Những ai muốn theo chân Chúa Giêsu, không thể để mình bị lệ thuộc bởi những thứ phàm tục của thế gian.
Thiên Chúa là người nắm quyền hành tối cao.
Ta không cần phải chứng minh với bất kỳ ai, rằng Thiên Chúa yêu thương ta.
Việc hiển dung và chịu đóng đinh của Chúa Giêsu. Tại sao Chúa che giấu sự vinh quang của mình trên đồi Golgotha? Trên núi Tábor, hào quang như là Thiên Chúa Ngôi Hai (Son of God); trên đồi Golgotha, chết cực hình như một Con Người (Son of Man), như thể chia sẻ, gánh vác, như hiểu được nỗi thống khổ cùng cực nhất của con người. Sự hiển dung của Chúa dạy cho ta rằng hào quang cao cả của Chúa bao gồm cái chết, và ta không thể tránh né được cái chết, mà phải vượt qua nó. Bóng tối ghê gớm cũng có thể sáng ngời ngợi được.
Ngài là Đấng duy nhất có thể cho tôi nước uống này, để tôi không còn khao khát nữa.
(John 9) Chúa Giêsu chữa một người mù bẩm sinh bị xua đuổi ra khỏi đền thờ. Chúa Giêsu đứng ngoài đền thờ để tâm sự với người tật nguyền bẩm sinh ấy. Câu chuyện này dường như nêu lên tia hy vọng cho những ai bị xã hội/giáo hội bỏ rơi.
Thiên Chúa ở đâu trong những lúc con người phải đối diện với bi kịch của cuộc đời? Chúa ở ngay bên cạnh ta, cùng đau đớn, rơi lệ vì ta.
(Refrain)
Transfigure us, O Lord,
transfigure us, O Lord.
Break the chains that bind us;
speak your healing word,
and where you lead we'll follow.
Transfigure us, O Lord.
1. Down from heights of glory
into the depths below,
the love of God self-emptied,
the love of God to show.
You light the path before us,
the way that we must go.
2. Light for those in darkness,
the hungry have their fill,
glad tidings for the humble,
the healing of all ills;
in these we glimpse your glory,
God's promises fulfilled.
3. Pardon for the sinner,
a shepherd for the sheep,
a drink of living water
for all who thirst and seek,
and feasting at your table,
the lowly and the least.
4. To the holy city,
Jerusalem, you go;
your face set toward the ending,
the cross to be your throne.
Shall we journey with you
and share your paschal road?
Hôm qua là Thứ Tư Lễ Tro (Ash Wednesday), chính thức bắt đầu Mùa Chay (Lent). Lại một mùa chay; tôi lại thêm nhiều tội.
Hôm qua nghe được một ý hay hay trên đài CBC Radio One về việc kiêng ăn: mỗi Thứ Sáu nhịn một bữa trưa, lấy số tiền ăn trưa ấy đem làm từ thiện. Kiêng thịt đối với tôi luôn là một ... thử thách. Người quen tôi thì biết tôi rất hảo ... thịt. Để xem năm nay có làm nổi hay không.
Nhưng ít ra, việc này có thể làm: nhịn uống cà phê mỗi ngày trong vòng 40 ngày tới. Chờ đến Chúa Nhật Phục Sinh sẽ đem $100 đi làm từ thiện.
Down the Via Dolorosa in Jerusalem that day
The soldiers tried to clear the narrow street
But the crowd pressed in to see
The Man condemned to die on Calvary
He was bleeding from a beating, there were stripes upon His back
And He wore a crown of thorns upon His head
And He bore with every step
The scorn of those who cried out for His death
Down the Via Dolorosa called the way of suffering
Like a lamb came the Messiah, Christ the King,
But He chose to walk that road out of
His love for you and me.
Down the Via Dolorosa, all the way to Calvary.
Por la Via Dolorosa, triste dia en Jerusalem
Los saldados le abrian paso a Jesus
Mas la gente se acercaba
Para ver al que llevaba aquella cruz
Por la Via Dolorosa, que es la via del dolor
Como oveja vino Cristo, Rey, Senor
Y fue El quien quiso ir por su amor por ti y por mi
Por la Via Dolorosa al Calvario y a morir
The blood that would cleanse the souls of all men
Made its way through the heart of Jerusalem.
Down the Via Dolorosa called the way of suffering
Like a lamb came the Messiah, Christ the King
But He chose to walk that road out of His love for you and me
Down the Via Dolorosa, all the way to Calvary.
Ứa lệ, khi xem lại đoạn phim này. Tài diễn xuất của anh chàng Jim Caviezel trong phim này quả thật là siêu phàm.
Đã gần đến Thứ Sáu Tuần Thánh. Tôi còn rất nhiều, rất nhiều việc cần phải chuẩn bị cho xong.
Don't try to be a great man; just be a man and let history make its own judgments.
(Đừng cố làm một "đại nhân". Hãy chú tâm làm "nhân" trước đã, và để lịch sử phán xét ta tùy ý.)
- Zefram Cochrane (2073)
Làm một "con người" tức là biết công nhận khả năng giới hạn, thừa nhận khuyết điểm, và quyết tâm khắc phục những khuyết điểm ấy cho đến khi đạt thành chánh quả.
Tôi đã biết qua vài tấm gương thánh nhân như vậy (Phê-rô, Phao-lô, A-gút-tinô, Giê-rôm). Họ là thánh nhân không phải vì họ hoàn mỹ, không hề sai lầm, nhưng vì họ biết thức tỉnh và quay lại con đường chánh thiện sau những lầm lỡ to tát. Thánh Phê-rô, môn đồ yêu quí nhất của Chúa Giêsu, đã chối bỏ Chúa khi Chúa bị bắt; Thánh Phao-lô là người thâu thuế từng đi bắt bớ môn đồ của Chúa; Thánh Âu Tinh trước khi đi tu đã từng sống trong trụy lạc xác phàm; còn Thánh Jerome nghe nói đã từng sống nhiều năm ngoài hoang dã để chuộc tội, không biết là tội gì--chắc là tội nóng tánh và cao ngạo . Đây là một vài gương thánh nhân mà tôi đang cố noi theo, với ít nhiều sự vất vả.
Recent Comments