[Ảnh: Đức Chúa Trời tạo nên Adam (Adam = người đàn ông đầu tiên), Michelangelo, thế kỷ XVI, Sistine Chapel; Nguồn: Wikipedia]
Trong bài viết mang tựa đề Đạo Thiên Chúa chỉ là Đạo Thờ Bò Cải Biến, bác Charlie Nguyễn đã tóm tắc khá rõ ràng quan điểm của bác ta về đạo thờ bò mà bác đã đề cập trong quyển sách "Công Giáo: Huyền Thoại và Tội Ác". Tóm tắc những quan điểm của bác Charlie như sau:
Babylon đã từng thờ bò. Đạo Do Thái nhập từ Balylon. Từ đó suy ra: Đạo Do Thái và các phát xuất từ đạo Do Thái đều là các đạo thờ bò.
Dân Semitic thờ Thần El, nghĩa là "thần bò". Do Thái gọi Thiên Chúa của họ là "El". Suy ra: Do Thái thờ thần bò.
Trong số con cháu của Abraham và của Mai Sen, có kẻ đã tôn thờ bò làm Thiên Chúa. Suy ra, Thiên Chúa của Abraham và Mai Sen là bò.
Về điểm 1, tôi đã đề cập đến vấn đề "cái nôi Babylon" ở đây. Đại ý, giả thuyết cho rằng đạo Thiên Chúa sao chép từ Babylon là hoàn toàn bịa đặt.
Về điểm 2, theo Wikipedia, el là một từ ngữ của dân Tây Bắc Semitic (chứ không phải Semetic), đơn giản có nghĩa đen là "đấng tạo hóa" (god, creator), từ Hán dịch là "thần". Có sự khác biệt rõ rệt giữa "god" và "God". Các tôn giáo đa thần gọi những vị thần của họ là "god". Do Thái giáo và Kitô giáo là tôn giáo độc thần thì dùng từ "God" (tức vị thần trên hết các thần, là Đấng Tạo Hóa, là ông trời). "El" tự nó đã có nghĩa là "thần", vì vậy dùng cụm từ "thần El" (El god) là một sự dư thừa. Hơn nữa, dù thật đã có một nhóm người trong bộ tộc Semitic tôn tượng bò lên làm thần (Bull Ēl--thần bò ~2300BC), không có nghĩa là toàn thể người dân Semitic đều tôn bò làm Chúa Tể Càn Khôn.
Về điểm 3, bác Charlie đã trích vài đoạn Thánh Kinh để "minh chứng" cho quan điểm của bác:
Aaron ra lệnh lập một bàn thờ ở chân núi Sinai và đặt tượng bò lên. Aaron tuyên bố ngày hôm sau sẽ là ngày đại lễ để dân Do Thái tạ ơn Chúa Elohim. Sáng hôm sau, khi dân Do Thái qui tụ đông đảo trước bàn thờ bò, Aaron chỉ vào con bò vàng và nói: "Đây là Thiên Chúa của các người, hỡi dân Irael, đó là Đấng đã mang các ngươi ra khỏi Ai Cập!" (Here is your God, Oh Israel, who brought you out of the land of Egypt). Dân Do Thái cúng tế Thiên Chúa Bò Vàng, sau đó nhảy múa ca hát hết sức vui vẻ. Vừa lúc đó, Moses mang hai tảng đá từ trên núi Sinai đi xuống. Moses thấy dân Do Thái thờ bò vàng bèn nổi giận ném hai tảng đá phá hủy tượng bò. Moses dùng quyền uy của mình cấm dân chúng không được tôn thờ ảnh tượng bò và không được gọi tên Thiên Chúa là Elohim nữa. Từ đó, người Do Thái gọi Thiên Chúa là Jehovah có nghĩa là "Thiên Chúa của các tổ phụ". Mặc dầu Moises gọi Thiên Chúa là Jehovah nhưng ai cũng biết Jehovah là Elohim, tức Thiên Chúa Bò Vàng của các tổ phụ Do Thái (kiêm tổ phụ Công Giáo Việt Nam) là Abraham, Isaac, Jacob!.
Không biết bác Charlie đã dùng bản dịch Kinh Thánh nào. Tra cứu sách Xuất Hành chương 32, câu 4 (Exodus 32:4), tôi thấy:
Ông [Aaron] lấy vàng từ tay họ trao cho, đem đúc và dùng dao mà gọt đẽo thành một con bê. Bấy giờ họ nói: "Hỡi Ít-ra-en, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai-cập."
And when he had received them, he fashioned them by founders' work, and made of them a molten calf. And they said: These are thy gods, O Israel, that have brought thee out of the land of Egypt.
Từ đó cho thấy, người thốt lên câu "Đây là Thiên Chúa của các người, hỡi dân Irael, đó là Đấng đã mang các ngươi ra khỏi Ai Cập!" không phải là Aaron, mà là một số người trong đám đông đã bắt Aaron đúc lên con bò vàng. Hơn nữa, chương 32 câu 7-9 cho thấy Thiên Chúa đà nổi giận vì đám dân đã thờ lạy thần giả thay vì tôn thờ Thiên Chúa thật.
Còn nữa, bác Charlie viết tiếp:
Các vua David, Solomon (thế kỷ 10 TCN) vẫn dùng tượng con bò làm biểu tượng cho Thiên Chúa Jehovah (1 King 12:28 = Bull represents Jehovah).
1 Kings (Các Vua, Quyển I) chương 11 và 12 kể về sự sa đọa của Solomon và Jeroboam. (Xem bản dịch từ giáolý.org11 và 12). Bác Charlie lấy những khúc truyện này làm gương tiêu biểu cho niềm tin Thiên Chúa sao?
Đọc những "nghiên cứu" của bác Charlie Nguyễn tới tới đây, tôi bắt đầu liên tưởng tới những gì bác Ralph Woodrow đã từng nói về mục sư Alexander Hislop:
Khi tôi tra cứu những mẫu tham khảo của ông, tôi nhận ra rất nhiều trường hợp mà những bài tham khảo ấy không hổ trợ cho quan điểm của ông. Càng đào sâu, mọi sự bắt đầu sáng tỏ--"lịch sử" của ông nhiều lúc chẳng qua chỉ là "thần thoại"...sự tùy ý gom góp nhiều mẩu truyện thần thoại này đến thần thoại khác không thể làm nên một nền tảng vững chắc cho lịch sử.
Thế nhưng cuối bài viết của bác Charlie lại ghi:
Bất cứ ai không đồng ý với những điều trên đây thì xin cứ việc thẳng thắn lên tiếng phản bác. Từ mấy năm qua đến nay tôi vẫn mong đợi sự lên tiếng của quí vị tu sĩ cao cấp trong Hội đồng Giám mục, các vị tiến sĩ thần học uyên bác và nhất là những vị trí thức Công giáo đã từng nổi tiếng sừng sỏ trong nhiều năm qua, nhưng tôi chỉ được đáp lại bằng sự im lặng khó hiểu.
Tôi nghĩ, họ im lặng là vì 2 lý do:
bởi họ nghĩ những ai bỏ công ra kiểm chứng những sưu tầm của bác thì họ sẽ thấy những kết quả "nghiên cứu" của bác chẳng qua chỉ là huyền thoại.
thay đổi quan điểm của một người đã có sẵn định kiến, còn khó hơn là dời non, lấp biển.
Chương Nhập Đề của của tác phẩm Công Giáo - huyền thoại và tội ác có viết:
Người Hy Lạp đặt ra tên JESUS bằng cách ghép chữ đầu của tiếng ICHTBUS, nghĩa là Cá (Fish), là các chữ đầu của cụm từ EOU UIOS SOTER, nghĩa là Con của Đức Chúa Trời (Son of God) để tạo thành tên IESOUS (hàm ý JESUS là Thần Cá Cứu Thế, Con của Thượng Đế). Điều này cho thấy ngay tên của JESUS cũng là một sản phẩm thần thoạị có nguồn gốc tôn giáo của thời kỳ bán khai của nhân loại.
Không biết do đánh máy lầm hay chính là lỗi của tác giả khi dùng chữ ICHTBUS, có lẽ ngụ ý tác giả muốn nói đến từ Ichthus:
- Iota là mẫu tự đầu của chữ Iesous (Ἰησοῦς), tiếng Hy Lạp, nghĩa là Giê-xu.
- Chi là mẫu tự đầu của chữ Christos (Χριστóς) ... Đấng Thánh.
- Theta ... Theou (Θεοῦ) ... thuộc về Đức Chúa Trời.
- Upsilon .... Huios (Υἱός) ... Con Trai.
- Sigma ... Soter (Σωτήρ), Đấng Cứu Nhân Độ Thế.
Vào những thế kỷ đầu tiên, người Kitô giáo đã dùng biểu tượng này làm mật hiệu để nhận diện nhau, hầu tránh bị bắt bớ bởi triều đại La Mã đang truy lùng để tận diệt họ. Mãi tới thế kỷ thứ tư, người ta mới chuyển sang cây Thập Tự làm biểu tượng cho Kitô giáo.
Vòng ngoài của biểu tượng có hình giống như con cá, còn giống như mẫu tự alpha (mẫu tự đầu tiên trong bộ mẫu tự Hy Lạp), ngụ ý: Chúa Giê-xu "là khởi đầu và cũng là tận cùng" (Khải Huyền 22:13).
Còn nếu ai đó, với mức độ "giác ngộ" cao siêu hơn, muốn hiểu theo cách khác, miễn cưỡng cho rằng đạo công giáo tôn thờ thần cá, thì có can hệ gì đến tôi? Hơn nữa, với lối suy luận ấy, họ sẽ liên tưởng đến những gì khi đọc cấu từ của hội đoàn First Universal Christian Kingdom (FUCK)?
Vừa từ nhà của mẫu thân về. Sáng nay bà đang làm trong tiệm thì cảm thấy chóng mặt, say xẩm mặt mày, bèn gọi điện về nhà cho tam đệ tôi, rồi gọi cho tôi.
Vợ chồng tam đệ chở bà vào phòng cấp cứu. Một giờ sau tôi có mặt ở bệnh viện, vừa đúng lúc bác sĩ phòng trực đến chẩn bệnh cho bà. Ông bác sĩ làm một loạt trắc nghiệm cho bà, xong rồi thử máu, vô nước biển, rồi bảo chờ. Hai giờ sau, ông trở lại, giải thích cho tôi biết bà bị chứng BPPV, bảo cho chụp CT cho bộ não. Rồi lại đi. Vài giờ sau, khoảng 19h30, ông trở lại, bảo não không có vấn đề, làm trắc nghiệm cho bà lần nữa. Bà bảo cảm thấy đỡ hơn, không còn thấy chóng mặt nữa, bèn cho xuất viện.
Hội chứng Chóng Mặt Kịch Phát Hiền Tính Do Tư Thế [Benign Paroxysmal Positional Vertigo (BPPV)] là một loại chứng chóng mặt quay cuồng liên quan tới tai. Bài viết trên Wikipedia có đường dẫn đến mạng của DizzyFIX, có bài giải thích dễ hiểu:
Tại mê cung của vùng tai trong (inner ear) của con người có nhiều hạt tinh thể canxi gọi là otoconia (cát tai) với tác dụng phân định thăng bằng. Với bệnh nhân của chứng BPPV, các viên cát tai này bị trượt thoát ra khỏi vị trí bình thường của chúng trong các túi chứa nhỏ, và bồng bềnh bên trong vùng tai trong. Những hạt cát tai này tạo cảm giác quay cuồng trong bệnh nhân khi chúng bị nhiễu loạn bởi các động tác xoay đầu.
BBPV có những đặc tính sau đây:
chóng mặt quay cuồng cực độ (cảm giác cả căn phòng bị quay cuồng)
cảm giác buồn nôn (nhưng ít khi thật sự nôn)
có thể được kích thích do một vài tư thế nào đó
chỉ kéo dài trong khoảng thời gian ngắn
cử động đặt thù của mắt gọi là nystagmus
Bệnh nhân thường thấy có triệu chứng khi nhìn lên, lăn mình khi nằm trên giường, cuối xuống phía dưới một đồ vật nào đó.
Tình trạng này xãy ra ở khoảng 10% của những người trên 60 tuổi. Bệnh BPPV có thể được chẩn đoán thấp (underdiagnosed) và bác sĩ thường hay điều trị bằng y dược thay vì phương pháp tái ổn định vị trí cát tai (particle repositioning maneuver).
Mạng DizzyFIX cho biết ở Shopper's Drug Mart có bán cái máy trị BPPV này.
Để Thứ Hai ghé tiệm gần công ty xem họ có không, và giá cả bao nhiêu. Nhưng chắc cũng phải cần hỏi ý kiến bác sĩ gia đình trước.
Điều trị khởi đầu này làm xê dịch các vật thể bồng bềnh ra khỏi ống bán khuyên sâu và do đó làm thuyên giảm 44% đến 95% các bệnh nhân mắc phải chứng chóng mặt kich phát hiền tính do tư thế. Trước hết, trắc nghiệm Dike-Hallpike được thực hiện về phía tai bị bệnh. Trong khi còn ở tư thế nằm ngửa va sau khi chóng mặt và rung giật nhãn cầu được gây nên bởi thủ thuật dừng lại, đầu bệnh nhân được đưa ngay về phía đối diện với tai bên đối diện bây giờ hướng xuống dưới. Đầu và thân của bệnh nhân được xoay thêm nữa theo cùng chiều hướng cho đến khi đầu của bệnh nhân có mặt hướng xuống dưới. Bệnh nhân nên được giữ trong tư thế này trong 10 đến 15 giây, sau đó được đưa lên tư thế ngồi với đầu vẫn còn giữ hướng về phía đối diện với tai bị bệnh. Trong khi ngồi, đầu được nghiêng sao cho cằm hướng xuống dưới. Thủ thuật Epley có thể cần được lập lại cho đến khi bệnh nhân không còn triệu chứng. Nếu thành công, bệnh nhân sẽ được chỉ thị tránh nằm trong vòng 24 đến 48 giờ sau đó.
Bác Charlie Nguyễn viết trong Chương Nhập Đề của tác phẩm Công Giáo - huyền thoại và tội ác:
Theo sử gia Hislop thì cái ý nghĩ quái đản về sự ăn thịt Chúa của người Công Giáo là học đòi tục lệ của tà giáo mọi rợ ăn thịt người. Các tu sĩ tà giáo bị buộc phải ăn thịt của mỗi người bị hy sinh một chút. Vì vậy danh từ "Canah-Baal" có nghĩa là tu sĩ đạo thờ Thiên Chúa Baal. Danh từ này trở thành căn ngữ cho tiếng Anh "Cannibal" có nghĩa là kẻ ăn thịt đồng loại. (The idea of eating the flesh of God was of cannibalistic inception. Since heathen priests ate a portion of all sacrifices, in case of human sacrifices, priests of Baal were required to eat human flesh. Thus Cannah-Baal, that is priests of Baal, has provided the basis for our modern word Cannibal that means the person who eats the flesh of other human beings. - The Two Babylon by Hislop. p.232).
...
Những chuyện hết sức kinh dị dã man khiến không ai ngờ có thể có trong đạo Công Giáo mà nhiều người đã lầm tưởng là đạo của người văn minh. Càng tìm hiểu về đạo Công Giáo, mọi người đều sẽ phải sửng sốt để nhận ra rằng Công Giáo La Mã thực sự chỉ là đạo của những linh hồn bán khai. Tôi thiết nghĩ những người Công Giáo Việt Nam hải ngoại có trình độ Anh ngữ cao nên tìm đọc cuốn sách nghiên cứu rất công phu của Hội Nghiên Cứu Thánh Kinh Ralph Woodrow (Ralph Woodroow Evangelistic Association P.O. Box 124 Riverside CA 92502 ) là tác phẩm BABYLON MYSTERY RELIGION - ANCIENT AND MODERN, xuất bản lần đầu năm 1966 và tái bản năm 1990 với 350.000 ấn bản. Danh từ "Tôn giáo của Huyền thoại Babylon" chính là tên gọi của hội này áp dụng cho Giáo Hội Công Giáo La Mã (Roman Catholic Church).
Tôi sẽ bàn về "ý nghĩ quái đản về sự ăn thịt Chúa của người Công Giáo" trong dịp khác. Giờ tiếp theo đề tài Babylon. Ở cuối Phần một, Chương một (CÁI NÔI CỦA CÁC ĐẠO CHÚA: VÙNG LƯỠI LIỀM PHÌ NHIÊU Ở CẬN ĐÔNG):
Babylon là nguồn gốc của các tôn giáo xây dựng giáo lý trên huyền thoại. Các đạo thờ Chúa đều là những tôn giáo xây dựng giáo lý trên căn bản là những huyền thoại của Babylon. Riêng Công Giáo La Mã là đạo đã được sao chép gần như nguyên bản tôn giáo của Babylon. Vì vậy, Hội Nghiên Cứu Thánh Kinh Ralph Woodrow California đã rất hữu lý gọi Công Giáo La Mã là "THE MODERN BABYLON MYSTERY RELIGION".
Vị mục sư Tin Lành, Ralph Woodrow, phần lớn dựa theo quyển sách của Hislop, đã bày tỏ quan điểm trong tác phẩm Babylon Mystery Religion (1981), rằng Giáo Hội La Mã là một giáo thuyết hổ lốn (hổn tạp) được đúc ra từ tôn giáo đa thần (pagans) của Babylon. Ông Woodrow, sau khi nhận ra điểm sai lầm của quyển sách của Hislop, đã trút bỏ những luận điệu sai lầm của chính mình bằng bài phê bình The Two Babylons: A Case Study in Poor Methodology.
Một nhà giáo môn sử học đã thách thức [quan điểm của] Woodrow, và đặt nghi vấn tới sự "nghiên cứu" của Hislop. Ông Woodrow do đó đã bắt đầu công việc sốt sắng nghiên cứu đề tài này, và càng khảo sát những lý luận của Hislop, ông càng khám phá ra rằng những ý niệm ấy hoặc là gian lận, hiểu sai, hoặc đã tạo nên những kết nối sai lầm. Dần dần, Ralph Woodrow buộc phải cho ngưng bán quyển sách của ông ta, và sau đó đã viết quyển thứ hai The Babylon Connection? (1997) để giải thích thêm và bẻ lại lối lập luận của Hislop (và của chính ông ta). Woodrow đã trở thành một nhà chỉ trích (critic) đối với thuyết "đa thần" [pagans] của Hislop. Ông viết:
"Cuốn sách đầu tiên của tôi [Babylon Mystery Religion] đã chứa vài mẫu thông tin có giá trị. Nhưng nó cũng tàng trữ vài điều giảng đã được phổ biến nhiều năm trước đó, The Two Babylons, của Alexander Hislop. Quyển sách này cho là nền tôn giáo của Babylon cổ đại, dưới sự lãnh đạo của Nimrod và vợ ông, đã được cải trang thành những danh từ có tính cách Kitô giáo, biến thành Giáo Hội La Mã. Vì vậy có hai cái "Babylon"--một cổ đại và một tân thời. Sự chỉ chứng cho ý niệm này đã được săn đón qua nhiều điểm tương đồng của đa thần giáo (paganism). Vấn đề [sai lầm] của phương thức này là: Trong rất nhiều trường hợp, hoàn toàn không có sự tương quan nào cả."
Ông Woodrow đã tra cứu từng văn bản gốc và nhận thấy rằng những ẩn dụ, liên kết, và giả thuyết của ông Hislop đều là gượng ghệu và vô căn cứ:
"Vì bởi Hislop viết vào thời điểm giữa 1800 những sách vở mà ông đã trích dẫn giờ đây đã khá củ. Tôi đã cố tìm những sách vở ấy để kiểm chứng sự tham khảo của ông ta--như quyển Layard's Nineveh and Its Remains, Kitto's Cyclopeidia of Biblical Literature, Wilkinson's Ancient Egyptians, và cả những ấn bản củ của Pausanias, Pliny, Tacitus, Herodotus, và còn nhiều nữa. Khi tôi tra cứu những mẫu tham khảo cuối trang (footnote references) của ông, tôi nhận ra rất nhiều trường hợp mà những bài tham khảo ấy không hổ trợ cho quan điểm của ông.
Càng đào sâu, mọi sự bắt đầu sáng tỏ--"lịch sử" của Hislop nhiều lúc chẳng qua chỉ là "thần thoại"...sự tùy ý gom góp nhiều mẩu truyện thần thoại này đến thần thoại khác không thể làm nên một nền tảng vững chắc cho lịch sử. Nếu chọn đủ các bộ tộc, truyện thần thoại, đủ thời gian, nhảy từ thời điểm này qua thời điểm kia, từ quốc gia này sang quốc gia kia, tùy ý chọn những điểm tương đồng, thì dĩ nhiên người ta sẽ có thể 'chứng minh' bất cứ những gì!"
Woodrow còn chứng minh rằng phương pháp toán số của Hislop (là một thứ mà ông đã cho rằng chỉ là sự mê tín) có thể áp dụng để biến bất kỳ tên của ai trở thành dấu chỉ của "Con Thú", ngay cả tên "The Rev Alexander Hislop".
...
Nếu ta đi đến kết luận dựa theo thông tin cục bộ, ta thậm chí có thể chứng minh rằng, [Thánh Kinh người Kitô Giáo đã từng ghi] "Làm gì có Ông Trời!" , trong khi, nguyên câu viết ấy là "Kẻ ngu si tự nhủ: "Làm gì có Ông Trời!" (Thánh Vịnh 14:1)
Trong mọi nền pháp chế cổ đại, chỉ có Do Thái (Hebrews) mới có thể so sánh được với Bộ Luật của Babylon. Giữa hai có rất nhiều điểm giống nhau, nguồn gốc Babylon của tổ phụ của dân tộc Do Thái, những mối quan hệ giữa Babylon với vùng đất Amurru, tất cả đều thúc đẩy các học giả đương thời để đặt ra nghi vấn rằng phải chăng sự quan hệ, không thể chối, giữa hai hệ luật pháp ấy là sự phụ thuộc? Các kết luận đã đạt được từ những công trình nghiên cứu này có thể tóm tắc như sau: Khỏi cần lưu ý rằng Hammiurabi không phụ thuộc vào Bộ Luật Do Thái. Còn ngược lại, Bộ Luật Giao Ước (Code of the Covenant) (Xuất Hành 21:1 tới 23:19) là dành cho người dân "bán du cư" (semi-nomadic people) của thời bấy giờ, và do đó không thể tùy thuộc vào luật hiện hành của Hammurabi. Cả hai [Babylon và Do Thái] đều được rút ra từ một nguồn gốc xa xưa hơn, vào thời điểm mà người Babylon, Do Thái, Á Rập, và những bộ tộc khác, đều hãy còn kết thành một dân tộc [trước khi họ tách rời ra].
Trong toàn bộ tập "huyền thoại và tội ác" (2001), không thấy bác Charlie đề cập đến quyển sách thứ hai của bác Woodrow--"The Babylon Connection?" (1997). Lẽ nào công trình nghiên cứu công phu của bác Charlie lại sơ sót vậy sao? Thử cho rằng bác Charlie hoàn toàn không có ý đồ gian dối, vậy có nghĩa là chắc bác ta không biết quyển thứ hai của bác Woodrow có tồn tại trên thế gian. Như vậy, tôi lấy làm tò mò, không biết bác ta sẽ có những phản ứng như thế nào nếu có cơ hội đọc quyển "The Babylon Connections?" nhỉ. Tiếc thay, bác Charlie đã về cõi hư vô hồi 2005 rồi còn đâu. Riêng tôi giờ này vẫn còn mò mẩm đọc tiếp phần còn lại của quyển sách để đời của bác.
Recent Comments