Tôi qui lỗi cho Ngũ Cô của tôi vì cái thảm trạng này, bởi vừa rồi bà mới gởi qua mấy đoạn vi-đi-ô "ca lẻ" thâu tại gia. Hôm qua lên nhà nhị đệ chơi qua đêm. Sau ba, bốn xị gì đó thì:
Chưa hề nghe qua bác này, nhưng nghe bài thuyết trình, thấy một người không tầm thường. Vài điểm gây chú ý đối với tôi:
Sự hiện hữu của mọi chướng ngại đều có mục đích: để thử thách sự cương quyết [và lòng kiên định] của ta, và để ngăn chặn những ai chưa ham muốn [đạt mục tiêu] đủ độ.
"Anh làm tốt lắm nhưng tôi biết anh còn có thể làm tốt hơn nhiều." Câu này tôi cần phải áp dụng nhiều hơn đ/v đám đệ tử--khi nào chúng nó chịu nhìn nhận mình là sư phụ.
Nếu ta chờ đủ lâu, thiên hạ sẽ dần dần tạo nên ấn tượng và làm cho ta ngạc nhiên.
Lời nói không mất tiền mua...: "Thật đáng buồn khi người ta cho rằng anh cao ngạo, bởi nó sẽ giới hạn rất nhiều những gì anh có thể đạt thành" là một cách khác để nói: "Anh là một thằng cà chớn".
Một buổi sáng hôm nọ, tôi được viếng bởi hai anh chàng truyền đạo thuộc giáo phái Nhân Chứng Giê-hô-va (Jehovah's Witnesses) đã đến gõ cửa nhà tôi, hỏi "Bạn có biết việc gì sẽ xãy ra với linh hồn khi người ta chết?", và "bạn có biết rằng những dấu hiệu chung quanh ta đang báo động cho một ngày tận thê?".
Khà khà khà...Đây không phải là lần đầu tiên mấy bác này "viếng" tôi. Thường thì tôi không đá động gì tới tôn giáo của người ta, nhưng mấy bác này đã đến gõ cửa nhà tôi, biết tôi là người công giáo ngoan cố mà vẫn tới, lại mỉa tôi với đoạn Thánh Kinh Matthew 7:15:
Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi.
Các bác đến sờ sờ trước cửa nhà tôi, tự xưng mình là ngôn sứ của Giê-hô-va, rồi lại chỉ cho tôi ngay câu kinh này. Hmm...
Danh từ Jehovah
NCG cho rằng "Jehovah" là danh xưng của Đức Chúa Trời thật (the one true God). Nhưng thật ra, danh từ "Jehovah" là một phiên âm sai lầm của từ gốc Do Thái, YHWH (nghĩa là: Chúa của tôi).
Tận thế sắp đến?
Giáo phái Nhân Chứng Giê-hô-va đã được bác Charles Taze Russell, một tín đồ của giáo hội Tin Lành, "sáng lập" vào thập niên 1870. Từ đó bác ta đã "tiên tri" ngày tận thế sẽ xãy ra vào năm 1914. 1914 đã qua, họ điều chỉnh lời tiên tri này thành năm 1925, rồi thì 1975. Tiếp theo sẽ là gì? 2012? Mác-cô 13:28-32 ghi:
28"Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. 29 Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi. 30 Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. 31 Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu. 32 "Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi.
Vậy người Kitô hữu nào tự cho mình biết được ngày tận thế, ấy là một trong những dấu hiệu của một tiên tri giả. Mặt khác, cần chi phải dọa tận thế để bắt người ta tôn thờ Thiên Chúa? Ấy chẳng phải là một trường hợp "dụng ý đứng đắn, nhưng biện pháp sai lầm" ư, vì đã vi phạm quyền tự do ý chí mà Thiên Chúa đã ban cho con người: Người ta tin phải vì người ta tự ý muốn tin, chứ không phải bị buộc phải tin.
Linh hồn và thể xác
Tín đồ NCG tin rằng linh hồn và thể xác đều là một, cho nên khi người ta chết, linh hồn cũng sẽ chết. "Chết" theo định nghĩa của NCG là một trạng thái "ngưng tồn tại, vô tri giác". Tương tự như ai đó đã bấm nút "pause" trên máy chiếu phim của đời người. Vậy không hề có tình trạng "hồn lìa khỏi xác".
NCG trích vài đoạn trong Thánh Kinh sách để hổ trợ cho niềm tin này. Ezekiel 18:4 :
4 Này, Mọi sinh mạng đều thuộc về Ta; sinh mạng của cha cũng như của con đều thuộc về Ta. Sinh mạng nào phạm tội, mạng ấy sẽ phải chết.
Behold, all souls are mine; as the soul of the father, so also the soul of the son is mine: the soul that sinneth, it shall die.
Nếu đọc nguyên đoạn văn thay vì chỉ một câu trên, ta thấy ngụ ý của đoạn kinh là cấm quan niệm "nợ cha, con trả", chớ không phải nói về sự hủy diệt của linh hồn.
5Người sống ít ra cũng biết mình sẽ chết, còn người chết chẳng biết gì cả ; họ đâu còn được hưởng điều gì, vì đã bị rơi vào quên lãng.
The dead know not any thing.for there is no work, nor device, no knowledge, nor wisdom, in the grave, whither thou goest."
...
10 Những gì trong tầm tay, bạn hãy ra sức làm, vì trong cõi âm ty, nơi bạn đang đi tới, không còn hoạt động, không còn dự tính, chẳng còn hiểu biết, chẳng còn khôn ngoan.
Whatsoever thy hand is able to do, do it earnestly: for neither work, nor reason, nor wisdom, nor knowledge shall be in hell, whither thou art hastening.
người chết không biết gì cả-tức là, không biết qua các giác quan xác thịt, và về sự đời trần thế; và họ không còn biết cửa để thống hối được nữa, như đã được mở rộng lúc họ còn sống nơi trần gian.
(dead know not anything-that is, so far as their bodily senses and worldly affairs are concerned (Job 14:21; Isa 63:16); also, they know no door of repentance open to them, such as is to all on earth.)
Nhưng, [quan điểm về] "sự sống và ý thức vẫn còn tồn tại giữa khoảng thời gian của sự chết và sự sống lại" đã được trực tiếp xác nhận trong Thánh Kinh.
(But that life and consciousness continue between death and resurrection is directly affirmed in Scripture.) Isa 14:9-11, Mt 22:32, Mk 9:43-48, Lk 16:19-31, Jn 11:26, 2Cor 5:6-8 Phil:21-23 Rev 6:9-11.
Vì thế, giáo hội Công Giáo tin rằng: Linh hồn và thể xác là hai thứ khác nhau. Thể xác là đất bụi, khi chết rồi sẽ trở về với đất bụi. Nhưng linh hồn là bất diệt (GLCG - Phần I - Đoạn II - Chương 1 - Mục 1 - Tiết 6):
366 (1005 997) Hội Thánh dạy rằng mỗi linh hồn thiêng liêng được Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng (x. Pi-ô XII, trong. "Humani Generis", 1950: DS 3896;SPF 8 ) chứ không phải do cha mẹ "sản sinh": Hội Thánh cũng dạy rằng, linh hồn là bất tử (x. Cđ La-tran năm. 1513; DS 1440), không hư mất khi lìa khỏi xác trong giờ chết, và sẽ tái hợp trở lại với thân xác trong ngày phục sinh cánh chung.
366 The Church teaches that every spiritual soul is created immediately by God - it is not "produced" by the parents - and also that it is immortal: it does not perish when it separates from the body at death, and it will be reunited with the body at the final Resurrection.235
Chúa Ba Ngôi
NCG tin rằng Đấng Giê-hô-và là Đức Chúa Trời, Đức Giêsu là con của Đức Chúa Trời, nhưng không nhận Giêsu là Thiên Chúa, mà chỉ là một vị tổng lãnh thiên thần, Micaê. Hmm....vào khoảng năm 325 có người tên Arius cũng đã phủ nhận bản tính Thiên Chúa của Đức Giêsu.
Theo đức tin công giáo, Đức Chúa Trời có ba ngôi: Ngôi Cha là Chúa; Ngôi Con cũng là Chúa; Ngôi Ba là Thánh Thần và cũng là Chúa; Ba ngôi là một Thiên Chúa. Vì lẽ này Thiên Chúa giáo là độc thần giáo (monotheism).
Đức Chúa Trời Ngôi Cha thì tín đồ Kitô nào cũng nhất trí. Về Chúa Giêsu, Thiên Chúa Ngôi Hai, không biết người anh em của tôi đã có đọc qua mấy đoạn này chưa nhỉ:
Gioan 1:1 viết "Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời đã ở cùng Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa". Ngôi Lời ấy là Chúa Giêsu.
Gioan 20:27-28: Rồi Người bảo ông Tô-ma: 'Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.' Ông Tô-ma thưa Người: 'Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!'
Khải Huyền 1:17-18: Lúc thấy Người, tôi ngã vật xuống dưới chân Người, như chết vậy. Người đặt tay hữu lên tôi và nói: "Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. 18 Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ.
Khải Huyền 22:12-13: [Rồi người bảo tôi]:"Đây, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến, và Ta đem theo lương bổng để trả cho mỗi người tuỳ theo việc mình làm. 13 Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và là Tận Cùng."
Matthew 28:19: Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần
Về Chúa Thánh Thần, mấy bác NCG tin rằng Thánh Thần (The Holy Spirit) chỉ là một tiềm lực (invisible force, The Force), tương tự như "điện lực" (electricity). Tôi thấy mấy bác này bị nhiễm phim truyện Star Wars hơi nhiều. Sách Tông Đồ Công Vụ, chương 5, câu 3 viết:
Anh Kha-na-ni-a, sao anh lại để Xa-tan xâm chiếm lòng anh, khiến anh phải lừa dối Thánh Thần...?
...Anh đã không lừa dối người phàm, mà đã lừa dối Thiên Chúa."
(Ananaias, how is it that Stan has so filled your heart that you have lied to the Holy Spirit? ... You have not lied to men but to God.")
Còn nữa, Ephesians 4:30 viết: "Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc."
Ai đời lại đi lừa dối hay làm phiền lòng một "tiềm lực" được sao? Xét với các câu trích ở trên, lối phân tích "Thánh Thần" của NCG chẳng có nghĩa lý gì cả.
Vấn đề truyền máu
Phải nói đây là đề tài nóng bỏng nhất khi người ta nhắc về giáo phái Nhân Chứng Giê-hô-va. Wikipedia có bài viết khá đầy đủ về đề tài này. Sau đây là những đoạn Kinh Thánh người NCG dùng để biện hộ cho quan điểm "cấm truyền máu". Genesis 9:3-4;
Mọi loài di động và có sự sống sẽ là lương thực cho các ngươi; Ta ban cho các ngươi tất cả những thứ đó, cũng như đã ban cỏ xanh tươi. 4 Tuy nhiên các ngươi không được ăn thịt với mạng sống của nó, tức là máu.
Every moving thing that is alive shall be food for you; I give all to you, as I gave the green plant. Only you shall not eat flesh with its life, that is, its blood.
Tại khắp nơi các ngươi ở, tất cả những gì là tiết, dù là tiết chim hay tiết loài vật, các ngươi không được ăn.
(You are not to eat any blood, either of bird or animal, in any of your dwellings.)
10) Bất cứ người nào thuộc nhà Ít-ra-en hoặc trong số ngoại kiều sống giữa chúng, ăn bất cứ thứ huyết nào, thì Ta sẽ quay mặt lại phạt kẻ ăn huyết và sẽ khai trừ khỏi dân nó; 11) vì mạng sống của xác thịt thì ở trong máu, và Ta, Ta đã ban máu cho các ngươi, trên bàn thờ, để cử hành lễ xá tội cho mạng sống các ngươi. Thật vậy, máu xá tội được vì nó là mạng sống.
(If any man whosoever of the house of Israel, and of the strangers that sojourn among them, eat blood, I will set my face against his soul, and will cut him off from among his people: Because the life of the flesh is in the blood: and I have given it to you, that you may make atonement with it upon the altar for your souls, and the blood may be for an expiation of the soul.)
...là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh.
(That you abstain from things sacrificed to idols and from blood and from things strangled and from fornication; if you keep yourselves free from such things, you will do well. Farewell.)
Không biết từ đâu--hay do sự "giác ngộ" từ bác Russell?--mấy bác NCG này lại liên kết việc ăn/uống máu sống với việc truyền máu. Đây là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau: Ăn/uống máu sống liên quan đến sát sanh (Điều răn thứ 6); trong khi truyền máu là một hành động cứu người--truyền máu không giết chết tế bào máu. Đây rõ ràng là một sự hiểu biết sai lạc về Kinh Thánh. Gio-an 15:13 viết: "Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình."
Đọc Kinh Thánh thôi là hiểu được ý Chúa ư?
Trang nhà trên Internet của Nhân Chứng Giê-hô-va có viết:
6. Làm sao chúng ta có thể biết Ðức Chúa Trời rõ hơn? Một cách là xem xét những gì ngài tạo ra và ngẫm nghĩ về ý nghĩa của những điều ấy. Các tạo vật của Ðức Chúa Trời cho thấy ngài có quyền năng rất lớn và khôn ngoan vượt bậc. Chúng ta thấy tình yêu thương của ngài thể hiện qua mọi vật ngài làm ra (Thi-thiên 19:1-6; Rô-ma 1:20). Chúng ta cũng có thể học biết về Ðức Chúa Trời bằng cách học hỏi Kinh-thánh.
Mấy bác này chắc không luyện phim chưởng nên không hiểu: Tự học hỏi nó khó tới cỡ nào; Lơ mơ là bị tẩu hỏa nhập ma chứ không phải chơi. Nếu ai cầm kinh sách lên đọc thì cũng đều thành chánh quả thì thế giới này đâu có nhiều tôn giáo như thế này. Nhắm mắt tự mình học kiểu như bác Russell đã từng "học" ở thuở xưa, bất kể những gì bao nhiêu vị tiền nhân đã từng nghiền ngẫm ra trong 2000 năm qua, thì tất nhiên sẽ sinh ra cái hệ phái như Nhân Chứng Giê-hô-va đây.
[Ảnh: Đức Chúa Trời tạo nên Adam (Adam = người đàn ông đầu tiên), Michelangelo, thế kỷ XVI, Sistine Chapel; Nguồn: Wikipedia]
Trong bài viết mang tựa đề Đạo Thiên Chúa chỉ là Đạo Thờ Bò Cải Biến, bác Charlie Nguyễn đã tóm tắc khá rõ ràng quan điểm của bác ta về đạo thờ bò mà bác đã đề cập trong quyển sách "Công Giáo: Huyền Thoại và Tội Ác". Tóm tắc những quan điểm của bác Charlie như sau:
Babylon đã từng thờ bò. Đạo Do Thái nhập từ Balylon. Từ đó suy ra: Đạo Do Thái và các phát xuất từ đạo Do Thái đều là các đạo thờ bò.
Dân Semitic thờ Thần El, nghĩa là "thần bò". Do Thái gọi Thiên Chúa của họ là "El". Suy ra: Do Thái thờ thần bò.
Trong số con cháu của Abraham và của Mai Sen, có kẻ đã tôn thờ bò làm Thiên Chúa. Suy ra, Thiên Chúa của Abraham và Mai Sen là bò.
Về điểm 1, tôi đã đề cập đến vấn đề "cái nôi Babylon" ở đây. Đại ý, giả thuyết cho rằng đạo Thiên Chúa sao chép từ Babylon là hoàn toàn bịa đặt.
Về điểm 2, theo Wikipedia, el là một từ ngữ của dân Tây Bắc Semitic (chứ không phải Semetic), đơn giản có nghĩa đen là "đấng tạo hóa" (god, creator), từ Hán dịch là "thần". Có sự khác biệt rõ rệt giữa "god" và "God". Các tôn giáo đa thần gọi những vị thần của họ là "god". Do Thái giáo và Kitô giáo là tôn giáo độc thần thì dùng từ "God" (tức vị thần trên hết các thần, là Đấng Tạo Hóa, là ông trời). "El" tự nó đã có nghĩa là "thần", vì vậy dùng cụm từ "thần El" (El god) là một sự dư thừa. Hơn nữa, dù thật đã có một nhóm người trong bộ tộc Semitic tôn tượng bò lên làm thần (Bull Ēl--thần bò ~2300BC), không có nghĩa là toàn thể người dân Semitic đều tôn bò làm Chúa Tể Càn Khôn.
Về điểm 3, bác Charlie đã trích vài đoạn Thánh Kinh để "minh chứng" cho quan điểm của bác:
Aaron ra lệnh lập một bàn thờ ở chân núi Sinai và đặt tượng bò lên. Aaron tuyên bố ngày hôm sau sẽ là ngày đại lễ để dân Do Thái tạ ơn Chúa Elohim. Sáng hôm sau, khi dân Do Thái qui tụ đông đảo trước bàn thờ bò, Aaron chỉ vào con bò vàng và nói: "Đây là Thiên Chúa của các người, hỡi dân Irael, đó là Đấng đã mang các ngươi ra khỏi Ai Cập!" (Here is your God, Oh Israel, who brought you out of the land of Egypt). Dân Do Thái cúng tế Thiên Chúa Bò Vàng, sau đó nhảy múa ca hát hết sức vui vẻ. Vừa lúc đó, Moses mang hai tảng đá từ trên núi Sinai đi xuống. Moses thấy dân Do Thái thờ bò vàng bèn nổi giận ném hai tảng đá phá hủy tượng bò. Moses dùng quyền uy của mình cấm dân chúng không được tôn thờ ảnh tượng bò và không được gọi tên Thiên Chúa là Elohim nữa. Từ đó, người Do Thái gọi Thiên Chúa là Jehovah có nghĩa là "Thiên Chúa của các tổ phụ". Mặc dầu Moises gọi Thiên Chúa là Jehovah nhưng ai cũng biết Jehovah là Elohim, tức Thiên Chúa Bò Vàng của các tổ phụ Do Thái (kiêm tổ phụ Công Giáo Việt Nam) là Abraham, Isaac, Jacob!.
Không biết bác Charlie đã dùng bản dịch Kinh Thánh nào. Tra cứu sách Xuất Hành chương 32, câu 4 (Exodus 32:4), tôi thấy:
Ông [Aaron] lấy vàng từ tay họ trao cho, đem đúc và dùng dao mà gọt đẽo thành một con bê. Bấy giờ họ nói: "Hỡi Ít-ra-en, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai-cập."
And when he had received them, he fashioned them by founders' work, and made of them a molten calf. And they said: These are thy gods, O Israel, that have brought thee out of the land of Egypt.
Từ đó cho thấy, người thốt lên câu "Đây là Thiên Chúa của các người, hỡi dân Irael, đó là Đấng đã mang các ngươi ra khỏi Ai Cập!" không phải là Aaron, mà là một số người trong đám đông đã bắt Aaron đúc lên con bò vàng. Hơn nữa, chương 32 câu 7-9 cho thấy Thiên Chúa đà nổi giận vì đám dân đã thờ lạy thần giả thay vì tôn thờ Thiên Chúa thật.
Còn nữa, bác Charlie viết tiếp:
Các vua David, Solomon (thế kỷ 10 TCN) vẫn dùng tượng con bò làm biểu tượng cho Thiên Chúa Jehovah (1 King 12:28 = Bull represents Jehovah).
1 Kings (Các Vua, Quyển I) chương 11 và 12 kể về sự sa đọa của Solomon và Jeroboam. (Xem bản dịch từ giáolý.org11 và 12). Bác Charlie lấy những khúc truyện này làm gương tiêu biểu cho niềm tin Thiên Chúa sao?
Đọc những "nghiên cứu" của bác Charlie Nguyễn tới tới đây, tôi bắt đầu liên tưởng tới những gì bác Ralph Woodrow đã từng nói về mục sư Alexander Hislop:
Khi tôi tra cứu những mẫu tham khảo của ông, tôi nhận ra rất nhiều trường hợp mà những bài tham khảo ấy không hổ trợ cho quan điểm của ông. Càng đào sâu, mọi sự bắt đầu sáng tỏ--"lịch sử" của ông nhiều lúc chẳng qua chỉ là "thần thoại"...sự tùy ý gom góp nhiều mẩu truyện thần thoại này đến thần thoại khác không thể làm nên một nền tảng vững chắc cho lịch sử.
Thế nhưng cuối bài viết của bác Charlie lại ghi:
Bất cứ ai không đồng ý với những điều trên đây thì xin cứ việc thẳng thắn lên tiếng phản bác. Từ mấy năm qua đến nay tôi vẫn mong đợi sự lên tiếng của quí vị tu sĩ cao cấp trong Hội đồng Giám mục, các vị tiến sĩ thần học uyên bác và nhất là những vị trí thức Công giáo đã từng nổi tiếng sừng sỏ trong nhiều năm qua, nhưng tôi chỉ được đáp lại bằng sự im lặng khó hiểu.
Tôi nghĩ, họ im lặng là vì 2 lý do:
bởi họ nghĩ những ai bỏ công ra kiểm chứng những sưu tầm của bác thì họ sẽ thấy những kết quả "nghiên cứu" của bác chẳng qua chỉ là huyền thoại.
thay đổi quan điểm của một người đã có sẵn định kiến, còn khó hơn là dời non, lấp biển.
Chương Nhập Đề của của tác phẩm Công Giáo - huyền thoại và tội ác có viết:
Người Hy Lạp đặt ra tên JESUS bằng cách ghép chữ đầu của tiếng ICHTBUS, nghĩa là Cá (Fish), là các chữ đầu của cụm từ EOU UIOS SOTER, nghĩa là Con của Đức Chúa Trời (Son of God) để tạo thành tên IESOUS (hàm ý JESUS là Thần Cá Cứu Thế, Con của Thượng Đế). Điều này cho thấy ngay tên của JESUS cũng là một sản phẩm thần thoạị có nguồn gốc tôn giáo của thời kỳ bán khai của nhân loại.
Không biết do đánh máy lầm hay chính là lỗi của tác giả khi dùng chữ ICHTBUS, có lẽ ngụ ý tác giả muốn nói đến từ Ichthus:
- Iota là mẫu tự đầu của chữ Iesous (Ἰησοῦς), tiếng Hy Lạp, nghĩa là Giê-xu.
- Chi là mẫu tự đầu của chữ Christos (Χριστóς) ... Đấng Thánh.
- Theta ... Theou (Θεοῦ) ... thuộc về Đức Chúa Trời.
- Upsilon .... Huios (Υἱός) ... Con Trai.
- Sigma ... Soter (Σωτήρ), Đấng Cứu Nhân Độ Thế.
Vào những thế kỷ đầu tiên, người Kitô giáo đã dùng biểu tượng này làm mật hiệu để nhận diện nhau, hầu tránh bị bắt bớ bởi triều đại La Mã đang truy lùng để tận diệt họ. Mãi tới thế kỷ thứ tư, người ta mới chuyển sang cây Thập Tự làm biểu tượng cho Kitô giáo.
Vòng ngoài của biểu tượng có hình giống như con cá, còn giống như mẫu tự alpha (mẫu tự đầu tiên trong bộ mẫu tự Hy Lạp), ngụ ý: Chúa Giê-xu "là khởi đầu và cũng là tận cùng" (Khải Huyền 22:13).
Còn nếu ai đó, với mức độ "giác ngộ" cao siêu hơn, muốn hiểu theo cách khác, miễn cưỡng cho rằng đạo công giáo tôn thờ thần cá, thì có can hệ gì đến tôi? Hơn nữa, với lối suy luận ấy, họ sẽ liên tưởng đến những gì khi đọc cấu từ của hội đoàn First Universal Christian Kingdom (FUCK)?
Vừa từ nhà của mẫu thân về. Sáng nay bà đang làm trong tiệm thì cảm thấy chóng mặt, say xẩm mặt mày, bèn gọi điện về nhà cho tam đệ tôi, rồi gọi cho tôi.
Vợ chồng tam đệ chở bà vào phòng cấp cứu. Một giờ sau tôi có mặt ở bệnh viện, vừa đúng lúc bác sĩ phòng trực đến chẩn bệnh cho bà. Ông bác sĩ làm một loạt trắc nghiệm cho bà, xong rồi thử máu, vô nước biển, rồi bảo chờ. Hai giờ sau, ông trở lại, giải thích cho tôi biết bà bị chứng BPPV, bảo cho chụp CT cho bộ não. Rồi lại đi. Vài giờ sau, khoảng 19h30, ông trở lại, bảo não không có vấn đề, làm trắc nghiệm cho bà lần nữa. Bà bảo cảm thấy đỡ hơn, không còn thấy chóng mặt nữa, bèn cho xuất viện.
Hội chứng Chóng Mặt Kịch Phát Hiền Tính Do Tư Thế [Benign Paroxysmal Positional Vertigo (BPPV)] là một loại chứng chóng mặt quay cuồng liên quan tới tai. Bài viết trên Wikipedia có đường dẫn đến mạng của DizzyFIX, có bài giải thích dễ hiểu:
Tại mê cung của vùng tai trong (inner ear) của con người có nhiều hạt tinh thể canxi gọi là otoconia (cát tai) với tác dụng phân định thăng bằng. Với bệnh nhân của chứng BPPV, các viên cát tai này bị trượt thoát ra khỏi vị trí bình thường của chúng trong các túi chứa nhỏ, và bồng bềnh bên trong vùng tai trong. Những hạt cát tai này tạo cảm giác quay cuồng trong bệnh nhân khi chúng bị nhiễu loạn bởi các động tác xoay đầu.
BBPV có những đặc tính sau đây:
chóng mặt quay cuồng cực độ (cảm giác cả căn phòng bị quay cuồng)
cảm giác buồn nôn (nhưng ít khi thật sự nôn)
có thể được kích thích do một vài tư thế nào đó
chỉ kéo dài trong khoảng thời gian ngắn
cử động đặt thù của mắt gọi là nystagmus
Bệnh nhân thường thấy có triệu chứng khi nhìn lên, lăn mình khi nằm trên giường, cuối xuống phía dưới một đồ vật nào đó.
Tình trạng này xãy ra ở khoảng 10% của những người trên 60 tuổi. Bệnh BPPV có thể được chẩn đoán thấp (underdiagnosed) và bác sĩ thường hay điều trị bằng y dược thay vì phương pháp tái ổn định vị trí cát tai (particle repositioning maneuver).
Mạng DizzyFIX cho biết ở Shopper's Drug Mart có bán cái máy trị BPPV này.
Để Thứ Hai ghé tiệm gần công ty xem họ có không, và giá cả bao nhiêu. Nhưng chắc cũng phải cần hỏi ý kiến bác sĩ gia đình trước.
Điều trị khởi đầu này làm xê dịch các vật thể bồng bềnh ra khỏi ống bán khuyên sâu và do đó làm thuyên giảm 44% đến 95% các bệnh nhân mắc phải chứng chóng mặt kich phát hiền tính do tư thế. Trước hết, trắc nghiệm Dike-Hallpike được thực hiện về phía tai bị bệnh. Trong khi còn ở tư thế nằm ngửa va sau khi chóng mặt và rung giật nhãn cầu được gây nên bởi thủ thuật dừng lại, đầu bệnh nhân được đưa ngay về phía đối diện với tai bên đối diện bây giờ hướng xuống dưới. Đầu và thân của bệnh nhân được xoay thêm nữa theo cùng chiều hướng cho đến khi đầu của bệnh nhân có mặt hướng xuống dưới. Bệnh nhân nên được giữ trong tư thế này trong 10 đến 15 giây, sau đó được đưa lên tư thế ngồi với đầu vẫn còn giữ hướng về phía đối diện với tai bị bệnh. Trong khi ngồi, đầu được nghiêng sao cho cằm hướng xuống dưới. Thủ thuật Epley có thể cần được lập lại cho đến khi bệnh nhân không còn triệu chứng. Nếu thành công, bệnh nhân sẽ được chỉ thị tránh nằm trong vòng 24 đến 48 giờ sau đó.
Bác Charlie Nguyễn viết trong Chương Nhập Đề của tác phẩm Công Giáo - huyền thoại và tội ác:
Theo sử gia Hislop thì cái ý nghĩ quái đản về sự ăn thịt Chúa của người Công Giáo là học đòi tục lệ của tà giáo mọi rợ ăn thịt người. Các tu sĩ tà giáo bị buộc phải ăn thịt của mỗi người bị hy sinh một chút. Vì vậy danh từ "Canah-Baal" có nghĩa là tu sĩ đạo thờ Thiên Chúa Baal. Danh từ này trở thành căn ngữ cho tiếng Anh "Cannibal" có nghĩa là kẻ ăn thịt đồng loại. (The idea of eating the flesh of God was of cannibalistic inception. Since heathen priests ate a portion of all sacrifices, in case of human sacrifices, priests of Baal were required to eat human flesh. Thus Cannah-Baal, that is priests of Baal, has provided the basis for our modern word Cannibal that means the person who eats the flesh of other human beings. - The Two Babylon by Hislop. p.232).
...
Những chuyện hết sức kinh dị dã man khiến không ai ngờ có thể có trong đạo Công Giáo mà nhiều người đã lầm tưởng là đạo của người văn minh. Càng tìm hiểu về đạo Công Giáo, mọi người đều sẽ phải sửng sốt để nhận ra rằng Công Giáo La Mã thực sự chỉ là đạo của những linh hồn bán khai. Tôi thiết nghĩ những người Công Giáo Việt Nam hải ngoại có trình độ Anh ngữ cao nên tìm đọc cuốn sách nghiên cứu rất công phu của Hội Nghiên Cứu Thánh Kinh Ralph Woodrow (Ralph Woodroow Evangelistic Association P.O. Box 124 Riverside CA 92502 ) là tác phẩm BABYLON MYSTERY RELIGION - ANCIENT AND MODERN, xuất bản lần đầu năm 1966 và tái bản năm 1990 với 350.000 ấn bản. Danh từ "Tôn giáo của Huyền thoại Babylon" chính là tên gọi của hội này áp dụng cho Giáo Hội Công Giáo La Mã (Roman Catholic Church).
Tôi sẽ bàn về "ý nghĩ quái đản về sự ăn thịt Chúa của người Công Giáo" trong dịp khác. Giờ tiếp theo đề tài Babylon. Ở cuối Phần một, Chương một (CÁI NÔI CỦA CÁC ĐẠO CHÚA: VÙNG LƯỠI LIỀM PHÌ NHIÊU Ở CẬN ĐÔNG):
Babylon là nguồn gốc của các tôn giáo xây dựng giáo lý trên huyền thoại. Các đạo thờ Chúa đều là những tôn giáo xây dựng giáo lý trên căn bản là những huyền thoại của Babylon. Riêng Công Giáo La Mã là đạo đã được sao chép gần như nguyên bản tôn giáo của Babylon. Vì vậy, Hội Nghiên Cứu Thánh Kinh Ralph Woodrow California đã rất hữu lý gọi Công Giáo La Mã là "THE MODERN BABYLON MYSTERY RELIGION".
Vị mục sư Tin Lành, Ralph Woodrow, phần lớn dựa theo quyển sách của Hislop, đã bày tỏ quan điểm trong tác phẩm Babylon Mystery Religion (1981), rằng Giáo Hội La Mã là một giáo thuyết hổ lốn (hổn tạp) được đúc ra từ tôn giáo đa thần (pagans) của Babylon. Ông Woodrow, sau khi nhận ra điểm sai lầm của quyển sách của Hislop, đã trút bỏ những luận điệu sai lầm của chính mình bằng bài phê bình The Two Babylons: A Case Study in Poor Methodology.
Một nhà giáo môn sử học đã thách thức [quan điểm của] Woodrow, và đặt nghi vấn tới sự "nghiên cứu" của Hislop. Ông Woodrow do đó đã bắt đầu công việc sốt sắng nghiên cứu đề tài này, và càng khảo sát những lý luận của Hislop, ông càng khám phá ra rằng những ý niệm ấy hoặc là gian lận, hiểu sai, hoặc đã tạo nên những kết nối sai lầm. Dần dần, Ralph Woodrow buộc phải cho ngưng bán quyển sách của ông ta, và sau đó đã viết quyển thứ hai The Babylon Connection? (1997) để giải thích thêm và bẻ lại lối lập luận của Hislop (và của chính ông ta). Woodrow đã trở thành một nhà chỉ trích (critic) đối với thuyết "đa thần" [pagans] của Hislop. Ông viết:
"Cuốn sách đầu tiên của tôi [Babylon Mystery Religion] đã chứa vài mẫu thông tin có giá trị. Nhưng nó cũng tàng trữ vài điều giảng đã được phổ biến nhiều năm trước đó, The Two Babylons, của Alexander Hislop. Quyển sách này cho là nền tôn giáo của Babylon cổ đại, dưới sự lãnh đạo của Nimrod và vợ ông, đã được cải trang thành những danh từ có tính cách Kitô giáo, biến thành Giáo Hội La Mã. Vì vậy có hai cái "Babylon"--một cổ đại và một tân thời. Sự chỉ chứng cho ý niệm này đã được săn đón qua nhiều điểm tương đồng của đa thần giáo (paganism). Vấn đề [sai lầm] của phương thức này là: Trong rất nhiều trường hợp, hoàn toàn không có sự tương quan nào cả."
Ông Woodrow đã tra cứu từng văn bản gốc và nhận thấy rằng những ẩn dụ, liên kết, và giả thuyết của ông Hislop đều là gượng ghệu và vô căn cứ:
"Vì bởi Hislop viết vào thời điểm giữa 1800 những sách vở mà ông đã trích dẫn giờ đây đã khá củ. Tôi đã cố tìm những sách vở ấy để kiểm chứng sự tham khảo của ông ta--như quyển Layard's Nineveh and Its Remains, Kitto's Cyclopeidia of Biblical Literature, Wilkinson's Ancient Egyptians, và cả những ấn bản củ của Pausanias, Pliny, Tacitus, Herodotus, và còn nhiều nữa. Khi tôi tra cứu những mẫu tham khảo cuối trang (footnote references) của ông, tôi nhận ra rất nhiều trường hợp mà những bài tham khảo ấy không hổ trợ cho quan điểm của ông.
Càng đào sâu, mọi sự bắt đầu sáng tỏ--"lịch sử" của Hislop nhiều lúc chẳng qua chỉ là "thần thoại"...sự tùy ý gom góp nhiều mẩu truyện thần thoại này đến thần thoại khác không thể làm nên một nền tảng vững chắc cho lịch sử. Nếu chọn đủ các bộ tộc, truyện thần thoại, đủ thời gian, nhảy từ thời điểm này qua thời điểm kia, từ quốc gia này sang quốc gia kia, tùy ý chọn những điểm tương đồng, thì dĩ nhiên người ta sẽ có thể 'chứng minh' bất cứ những gì!"
Woodrow còn chứng minh rằng phương pháp toán số của Hislop (là một thứ mà ông đã cho rằng chỉ là sự mê tín) có thể áp dụng để biến bất kỳ tên của ai trở thành dấu chỉ của "Con Thú", ngay cả tên "The Rev Alexander Hislop".
...
Nếu ta đi đến kết luận dựa theo thông tin cục bộ, ta thậm chí có thể chứng minh rằng, [Thánh Kinh người Kitô Giáo đã từng ghi] "Làm gì có Ông Trời!" , trong khi, nguyên câu viết ấy là "Kẻ ngu si tự nhủ: "Làm gì có Ông Trời!" (Thánh Vịnh 14:1)
Trong mọi nền pháp chế cổ đại, chỉ có Do Thái (Hebrews) mới có thể so sánh được với Bộ Luật của Babylon. Giữa hai có rất nhiều điểm giống nhau, nguồn gốc Babylon của tổ phụ của dân tộc Do Thái, những mối quan hệ giữa Babylon với vùng đất Amurru, tất cả đều thúc đẩy các học giả đương thời để đặt ra nghi vấn rằng phải chăng sự quan hệ, không thể chối, giữa hai hệ luật pháp ấy là sự phụ thuộc? Các kết luận đã đạt được từ những công trình nghiên cứu này có thể tóm tắc như sau: Khỏi cần lưu ý rằng Hammiurabi không phụ thuộc vào Bộ Luật Do Thái. Còn ngược lại, Bộ Luật Giao Ước (Code of the Covenant) (Xuất Hành 21:1 tới 23:19) là dành cho người dân "bán du cư" (semi-nomadic people) của thời bấy giờ, và do đó không thể tùy thuộc vào luật hiện hành của Hammurabi. Cả hai [Babylon và Do Thái] đều được rút ra từ một nguồn gốc xa xưa hơn, vào thời điểm mà người Babylon, Do Thái, Á Rập, và những bộ tộc khác, đều hãy còn kết thành một dân tộc [trước khi họ tách rời ra].
Trong toàn bộ tập "huyền thoại và tội ác" (2001), không thấy bác Charlie đề cập đến quyển sách thứ hai của bác Woodrow--"The Babylon Connection?" (1997). Lẽ nào công trình nghiên cứu công phu của bác Charlie lại sơ sót vậy sao? Thử cho rằng bác Charlie hoàn toàn không có ý đồ gian dối, vậy có nghĩa là chắc bác ta không biết quyển thứ hai của bác Woodrow có tồn tại trên thế gian. Như vậy, tôi lấy làm tò mò, không biết bác ta sẽ có những phản ứng như thế nào nếu có cơ hội đọc quyển "The Babylon Connections?" nhỉ. Tiếc thay, bác Charlie đã về cõi hư vô hồi 2005 rồi còn đâu. Riêng tôi giờ này vẫn còn mò mẩm đọc tiếp phần còn lại của quyển sách để đời của bác.
Không biết duyên cớ sao, xui khiến tôi toàn là chạm tới những tay từ phản tôn giáo đến phản Công Giáo. Lúc trước đã lướt ngang bài viết của bác Trần Chung Ngọc, đã cho qua. Nay thì lại tình cờ đụng tới bác Charlie Nguyễn (Dominic Nguyễn Chấn)--đọc bài này để biết thân thế của ông.
Chắc là không thể bỏ qua được nữa. Thử lãng phí chút thời gian đọc xem vị cựu tín đồ Công Giáo này viết gì trong tác phẩm Công Giáo - huyền thoại và tội ác.
Cô trẻ này làm tui phục quá. Cân bằng giữa việc học (ĐH Windsor), việc làm (RBC Dominion Securities) và chủ nhân của công ty bất vụ lợi Lemonade Capital (trang Wikipedia chưa tồn tại, nhưng chắc sẽ có trong nay mai), mà cô vẫn còn thời gian cho mọi sinh hoạt đời thường. Bí quyết của cô ta, đơn giản là: "Tôi đã chinh phục việc quản bá thời gian."
Tôi thì vẫn chưa. Những ai quen tôi đều không lạ rằng: tôi là một thằng hay lề mề, rề rà.
Từ lâu tôi đã ngừng lập kế hoạch cho một ngày làm việc, vì mọi dự tính đều tan biến khi nhiều nguyên tố ngoài sự điều khiển của mình luôn xảy đến.
Nghe bài phỏng vấn này có thể là động cơ thúc đẩy tôi thử lại một lần, cảm thấy mình đã lãng phí nhiều thời gian, giải thuật (algorithm) về đời sống hơi bị kém năng suất. Và giờ đã không còn nhiều thời gian như lúc xưa nữa. Đến lúc cần phải tối ưu hóa giải thuật ấy. Nhưng "tối ưu hóa" cái kiểu nào? Trời biết! Chỉ biết là: chỉ được nâng cấp; không được tái tạo, bởi làm như thế sẽ tháo gỡ những đường tơ hệ trọng của tấm thảm đời đã góp phần làm nên ta. Cho nên, ít ra bài tập này sẽ giúp khẳng định hay không, rằng: bản tính tôi vốn là một tên lề mề. Và nếu thật là vậy, thì chỉ có thể kết luận rằng: những gì tôi làm được, bất chấp cá tính lề mề, là vì bởi ơn Trời.
Không thấy Vatican có phản ứng cụ thể gì về những đề tài này (Hành Tinh X, Nibiru, v.v...). Tuy nhiên, hồi 2003, Tòa Thánh có công bố văn kiện với tựa đề JESUS CHRIST THE BEARER OF THE WATER OF LIFE (Đức Giêsu Cứu Thế--Đấng Mang Đến Nước Trường Sinh), phản bác phong trào Thế Hệ Mới (Thế Hệ Bảo Bình--Age of Aquarius). Theo đó, tôi nghĩ người công giáo nào mà tin mấy thứ này thì có thể đã vi phạm GLCG 2116 (tôi đã có đề cập ở bài này, và bài này).
Thuần túy tiếng Việt chúng ta thường dịch "pornography" là "sách báo khiêu dâm", hay "dâm thư". Theo Wikipedia, chữ "pornography" bắt nguồn từ ngôn ngữ Hy Lạp, kết hợp bởi hai từ "porne" (đĩ điếm), và "grapho" (ghi chép) thêm hậu tố là "-ia" (nơi của, thuộc về), tức là "nơi ghi chép về đĩ điếm"
Gợi đến vấn đề "tại sao những tài liệu khiêu dâm có hại cho trẻ em?" Theo mạng ProtectKids.com:
Vào khoảng thời kỳ hệ trọng nào đó của tuổi ấu thơ, bộ óc của trẻ em được "lập trình" cho sự định hướng tính dục. Vào thời kỳ này, tâm trí của em dường như đang phát triển một thứ "lắp đặt dây điện cố định" về những gì sẽ gợi cảm hoặc thu hút con người ấy. Nếu được tiếp xúc với những quan niệm lành mạnh và bình thường về tính dục vào những thời kỳ quan trọng này, trẻ em sẽ phát triển một định hướng lành mạnh. Ngược lại, nếu bị ảnh hưởng bởi tài liệu khiêu dâm vào thời kỳ này, những quan niệm thái quá về tính dục có thể sẽ in sâu vào tâm trí các em và trở thành một phần "bất di bất dịch" của định hướng tính dục của các em.
Trẻ em thường hay bắt chước những gì chúng thấy, đọc, hoặc nghe. Nhiều nghiên cứu cho thấy sự tiếp xúc với dâm thư có thể xúi giục trẻ "thực hành" các hành động ấy đối các em khác trẻ hơn, nhỏ hơn, và yếu đuối hơn chúng.
Đối với không chỉ các tài liệu khiêu dâm hạng "nhẹ", nhưng thậm chí các tài liệu rõ ràng là đồi trụy (tức là: bẩn thỉu, ghê gớm, bất thường), càng được tiếp xúc nhiều, trẻ em sẽ càng học được một điều rất nguy hiểm: quan hệ tính dục vô trách nhiệm là chuyện bình thường và đáng khát khao. Bởi
dâm thư khuyến khích sự thể hiện tính dục không trách nhiệm, nó có thể nguy hại đến sức khỏe của trẻ em.
Đa số phụ huynh có tinh thần trách nhiệm trong chúng ta muốn truyền dạy cho con em những giá trị cá nhân về sự quan hệ, về tính dục, sự thân mật, tình yêu, và hôn nhân. Rủi thay, những thông tin mãnh liệt từ dâm thư có thể đang "giáo dục" con em chúng ta về những đề tài hệ trọng ấy. Cũng như những bức quảng cáo 30 giây có khả năng ảnh hưởng đến sự lựa chọn của ta về một nhãn hiệu nước giải khác phổ biến, sự tiếp xúc với dâm thư có thể định dạng cho thái độ, giá trị, và luôn cả cách cư xử của chúng ta.
Lời cuối tôi dành cho bài viết có phần tựa Photographs don't affect us? (Hình Ảnh không ảnh hưởng được chúng ta ư?), bác Karen Holgate viết:
Dâm thư có thể gây nghiện ngập. Điều đó không có nghĩa là người nào xem hình ảnh khiêu dâm cũng đều sẽ trở thành kẻ nghiện. Tuy nhiên, gần giống như rượu [hoặc thuốc lá], ta không thể lường trước được, cho đến khi tiếp xúc với chúng. Đối với những ai yếu lòng, nó như xăng châm vào lửa.
Tức là, nếu không điều lượng được thì tránh xa càng tốt, e lại đem vàng dỏm đi thử lửa.
Recent Comments